• 317 đường số 5, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, TP.HCM
  • 0868 166 799
0

Huyền Không Phi Tinh vận 9, Cửu Tử gọi là sao Hữu, đảm nhận chức năng chủ quản trong suốt 20 năm, là biểu tượng của sự may mắn. Ngoài ra, con số 9 cũng mang đến vận may cực kỳ tốt.

Huyền Không Phi Tinh Là Gì

Nam Ly và Bắc Khảm, nơi có chính thần và linh thần, là hai hướng Vượng Khí trong vận 9. Những khu vực ở Nam và Bắc trong một thành phố hoặc khu vực nào đó sẽ có nhiều cơ hội thịnh vượng. Tuy nhiên, cần xét đến loan đầu, bố cục, và đặc biệt là thời vận cá nhân thông qua sinh thần bát tự.

Nghành nghề hưng vượng: Cửu Tử thuộc hành Hỏa, nên các nghành nghề liên quan đến Hỏa sẽ có nhiều cơ hội phát triển. Tâm tánh của những người Cửu Tử thường bộc trực, thẳng thắn, và nhiệt thành. Tuy nhiên, ngọn lửa cũng dễ bùng cháy, và mọi vấn đề đều có hai mặt như tờ giấy, không thể tách rời.

Huyền Không Phi Tinh Là Gì-1

Họa và Phúc trong vận 9

Người sân là như ngọn lửa, và quá nhiều người sân giận có thể làm nóng lên trái đất, gây ra hậu quả tiêu cực. Do đó, để duy trì một từ trường tích cực, việc sử dụng phong thủy để cân bằng từ trường của vạn vật và môi trường là một phương tiện tốt. Tuy nhiên, từ trường tích cực của bản thân là điều không thể bàn cãi. Để trở thành người có từ trường tích cực, chúng ta cần lắng nghe giảng kinh và thực hành thiền.

SƠ LƯỢC HUYỀN KHÔNG PHI TINH

Trong bộ “Thẩm thị Huyền Không học,” Thẩm Trúc Nhưng giải thích về hai chữ “Huyền Không” như sau: Dương Hùng trong sách Pháp Ngôn có viết “Huyền giả nhất dã” (nghĩa là Huyền là một), lời giải thích này khá rõ ràng. Nhưng khi đến chữ “Không,” việc giải thích trở nên khó khăn. Bởi vì “Không” không chỉ đơn giản là trống không hoàn toàn, mà trong “Không” lại chứa đựng “Có.” Các học giả Thiên Trúc (Ấn Độ) xưa giải thích như sau:

Huyền Không Phi Tinh Là Gì-3

Dựa vào Lạc thư, vua Văn Vương nhà Chu sau này đã đưa ra Hậu thiên Bát quái và định vị cho Cửu tinh như sau:

  • Số 9 nằm ở trên, tức hướng Nam. Vì phương hướng Nam nóng, thuộc quẻ Ly-Hỏa, nên số 9 mang hành Hỏa.
  • Số 1 nằm ở dưới, thuộc hướng Bắc. Vì phương hướng Bắc hàn lạnh, thuộc quẻ Khảm-Thủy, nên số 1 mang hành Thủy.
  • Số 3 nằm bên trái, thuộc phương Đông. Vì phương Đông thuộc quẻ CHẤN-Mộc, nên số 3 mang hành Mộc.
  • Số 7 nằm bên phải, thuộc phương Tây. Vì phương Tây thuộc quẻ Đoài-Kim, nên số 7 mang hành Kim.
  • Số 2 ở “vai” bên phải, nằm tại phía Tây Nam. Vì Tây Nam thuộc quẻ KHÔN-Thổ, nên số 2 mang hành Thổ.
  • Số 4 ở “vai” bên trái, nằm tại phía Đông Nam. Vì Đông Nam thuộc quẻ Tốn-Mộc, nên số 4 mang hành Mộc.
  • Số 6 ở “chân” bên phải, nằm tại phía Tây Bắc. Vì Tây Bắc thuộc quẻ Càn-Kim, nên số 6 có hành Kim.
  • Số 8 ở “chân” bên trái, nằm tại phía Đông Bắc. Vì phía Đông Bắc thuộc quẻ Cấn-Thổ, nên số 8 mang hành Thổ.
  • Số 5 ở chính giữa (trung cung). Vì trung cung là nơi phát sinh và cũng là nơi kết thúc của vạn vật, nên trung cung thuộc hành Thổ. Do đó, số 5 cũng mang hành Thổ.

CHI TIẾT 8 HƯỚNG 24 SƠN VẬN 9

Từ năm 2024, cung Ly hướng Nam sẽ trở thành Chính Thần. Cửu tử Hữu bật đương lệnh, Cửu tử tọa Nam, vì vậy hướng Nam sẽ là Chính Thần. Đối xung với Nam là Bắc thuộc Khảm, phương vị Bắc trong Vận 9 sẽ là Linh Thần.

Ở một vùng trong Vận 9, phía Nam có đồi núi cao, phía Bắc có sông nước, là nơi hưng thịnh trong Vận 9. Tuy nhiên, điều này chỉ áp dụng cho một vùng cụ thể. Chính Thần và Linh Thần không áp dụng cho từng mảnh đất hoặc ngôi nhà. Mỗi mảnh đất hoặc ngôi nhà có quẻ tương ứng theo tọa độ riêng của nó.

Nam Ly và Bắc Khảm, nơi có Chính Thần và Linh Thần, là hai phương hướng vượng khí trong Vận 9. Những khu vực Nam và Bắc trong một Thành phố hay một vùng sẽ có nhiều cơ hội thịnh vượng. Tuy nhiên, cần xét theo loan đầu, bố cục, và quan trọng nhất là thời vận mỗi người thông qua Sinh Thần Bát tự.

Do đó, Huyền không học là môn Phong thủy dựa vào sự di chuyển của 9 con số theo quỹ đạo của vòng Lượng thiên Xích trên đồ hình Bát quái để đoán định sự cát, hung, được, mất của từng căn nhà (dương trạch) hay phần mộ (âm trạch).

Nhưng tại sao lại phải dựa trên đồ hình Bát quái? Đó là vì ngay từ thời xa xưa, cổ nhân đã biết phác họa ra Bát quái để thu tóm mọi biến chuyển của Trời (thiên văn), Đất (địa lý) vào đó. Theo “Lục kinh đồ”, phần “Ngưỡng quan thiên văn đồ” thì “Phục Hy quan sát thiên văn mà vẽ ra Bát quái. Do đó, phàm những gì thuộc về thiên văn như vòng vận hành của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, ngày tháng, bốn mùa không gì mà Bát quái không thu tóm”. Còn sách Phủ Sát địa lý thì viết “Cúi xuống xem xét địa lý mà vạch ra 8 quẻ, cho nên phàm những gì liên quan tới lý lẽ của Đất (địa) như bốn phương chín châu, điểu, thú. thảo mộc, mười hai chi sở thuộc không gì mà Bát quái không cai quản”.

Như vậy, Bát quái chính là sự thu tóm những biến chuyển của Trời, Đất, còn sự di chuyển của 9 con số (Cửu tinh) theo vòng Lượng thiên Xích chính là những biến hóa, thay đổi của sự vật. Kết hợp những yếu tố này với nhau, tức là đưa sự vận hành của Cửu tinh theo vòng Lượng thiên Xích vào trong đồ hình của Bát quái để thu tóm mọi biến chuyển của Trời, Đất và sự vật chung quanh. Điều này giúp đánh giá vận khí tốt hay xấu của căn nhà hay ngôi mộ trong từng khoảng thời gian nhất định. Đây chính là nguyên nhân của sự hình thành và phát triển của trường phái Phong thủy mang danh là “Huyền không học” hay Huyền Không Phi tinh.

Sau khi có sơ đồ phi tinh, thực hiện đánh giá tốt xấu để xây dựng phương án bài trí phù hợp. Hai yếu tố quan trọng nhất là toạ và hướng, vì hướng là nơi nạp Thiên khí vào nhà, quyết định về hoạ phúc. Toạ là nơi hấp thụ Địa khí, liên quan đến nhân định và hậu vận. Mỗi cung toạ và hướng đều có các Phi Tinh Sơn và Hướng, dựa vào Sơn Tinh và Hướng Tinh để đưa ra đánh giá tốt xấu. Dưới đây là phân tích cách kết hợp của Sơn Tinh và Hướng Tinh.

Trong việc đánh giá, chúng ta nên chú trọng vào vượng và suy, với nguyên tắc lấy vượng làm chính, suy làm ngược lại. Vượng tinh mang lại cát lợi và tốt cho chủ nhân, trong khi suy tinh có thể đem lại tác động tiêu cực và hại. Vượng tinh cần được tạo ra để sinh phù, còn suy tinh cần được kiểm soát và hóa giải. Nhìn chung, cửa chính và cửa phụ nên được đặt ở những hướng có tinh cát vượng, tạo điều kiện cho sinh hoạt và sự đi lại. Nếu có hung tinh suy tử chiếu, cần thực hiện các biện pháp trấn yểm và hoá giải thích hợp. Hạn chế sự di chuyển hoặc mở cửa sổ ở các hướng khác tốt hơn là giải pháp tối ưu.

Nhất Bạch

11 : Đào hoa, vượng ứng với quan tinh, chủ văn xương, độc thư, thông minh, văn tài xuất chúng. Suy ứng với tai máu thận suy, di tinh tiết huyết, dâm đãng, x ảy thai, bất đắc chí.

12 : Dễ mắc bệnh dạ dày, ruột, bệnh thận, tai máu, nữ mắc phụ khoa, đẻ non, sảy thai. Trung nam không thuận phải ly tổ bôn ba, quan lộc bị x âm hại.

13 : Tranh chấp, quan phi, đạo tặc, phá tài

14 : Ra ngoài có lợi, dễ thăng chức, văn chương phát quý nổi danh, tài vượng, phụ nữ sang quý. Nếu suy sinh dâm đãng.

15 : Tổn hại nhân đinh, dễ mắc bệnh thận, tai máu, trung nam bị tổn hại.

16 : Phú quý cát lợi, văn tài thông minh, hãm thì dâm loạn

17 : Đào hoa, ra ngoài cát lợi. Nếu hãm thì thương tích, thị phi, tham luyến tửu sắc.

18 : Phạm bệnh tật tai máu, trung nam bất lợi tha hương lưu lạc.

19 : Thuỷ hoả không dung, phạm bệnh tật mắt, tinh thần, trước tốt sau x ấu.

 

Nhị Hắc

 

21 : Nữ bệnh phụ khoa, tràng vị, nam mắc bệnh tai máu thận, trung nam tổn hại.

22 : Bệnh tật, nữ bệnh phụ khoa, nam mắc bệnh đường ruột. Đắc v ận thì giàu có.

23 : Cách Đấu Ngưu sát chủ quan phi, kiện tụng, khẩu thiệt. Mẹ già tổn hại.

24 : Bất hoà, bệnh phong hàn, khẩu thiệt, kiện tụng, sinh nở khó, hại mẹ già.

25 : Tổn thất nhân đinh, cô quả, mẹ nhiều bệnh.

26 : Đất đai vượng phát, tăng tài, buôn bán phát đạt.

27 : Tiến tài, nhiều hỷ sự, nếu hãm phạm đào hoa, khẩu thiệt, tán tài.

28 : Cách hợp thập chủ cát lợi, dễ đi xa

29 : Sinh đẻ nhiều, nếu v ượng chủ văn tài, thất v ận phòng bệnh tật, sinh người ngu đần.

 

Tam Bích

 

31 : Thị phi khẩu thiệt tranh đấu phá tài. Nếu đắc lệnh thì phát quý.

32 : Cách Đấu Ngưu sát chủ thị phi tranh đấu đạo tặc, hại mẹ già, bệnh đường ruột.

33 : Quan phi, thị phi, đạo tặc, đắc lệnh thì phú quý.

34 : Đào hoa, kiếp tặc hại cho nữ. Đắc lệnh văn tài phú quý nổi danh.

35 : Hại tì vị, chủ nhân bất an, hại cho trưởng nam.

36 : Trưởng nam bất lợi, quan phi, thương tích chân tay, đắc lệnh thì quyền uy, phát văn tài.

37 : Phá tài, kiếp đạo, dâm đãng, hại trưởng nam

38 : Bất lợi nhiều bệnh tật, phá tài, tuyệt hậu

39 : Thông minh tiến tài, sinh quý tử

 

Tứ Lục

 

41 : Đào hoa dâm đãng, nếu sinh vượng thì xuất ngoại thành danh, v ăn tài xuất chúng

42 : Bệnh tật tỳ vị, hại mẹ già.

43: Dâm loạn, đạo tặc, hại thiếu nữ

44 : Đào hoa, ly tổ, sinh v ượng thì có quý nhân phù trợ, văn tài thành danh.

45 : Nhiều bệnh tốn tài. Sinh vượng thì nhà cửa hưng v ượng

46 : Trước lành sau x ấu, khó sinh, bất lợi trưởng nữ

47 : Cô qủa bất hoà, nạn đao thương thổ huyết, hại trưởng nữ. Sinh vượng thì xuất hiện giai nhân tài sắc

48 : Tổn tài, hại thiếu nam, bệnh phong tật thấp khớp, đào hoa. Tốt lành tiến tài, lợi điền sản.

49 : Sinh quả phụ, đào hoa. Sinh vượng thì Mộc Hoả thông minh, xuất hiện danh sĩ.

 

Ngũ Hoàng

 

51 : Tổn nhân đinh, hại trung nam nhiều bệnh tật, bệnh tai máu thận.

52 : Sinh cô quả phụ, nhiều bệnh, bệnh tỳ vị.

53 : Hại trưởng nam, phá tài, nhiều bệnh tật

54 : Phá tài, hại nhân khẩu, bệnh tật

55 : Rất x ấu chủ bệnh tật, hao người tốn của

56 : Nếu sinh vượng thì rất tốt

57 : Bệnh tật, kiếp đạo, đắc thì tiến tài nhiều hỷ sự

58 : Bất lợi thiếu nam, đắc thì cát chủ hoạnh phát tài

59: Sinh nở khó, bệnh tật, thương vong, ăn chơi phá tài

 

Lục Bạch

 

61 : Đào hoa dâm loạn, sinh nở khó. Đắc thì quan lộc hanh thông

62 : Bệnh tật, phụ khoa, tổn tài

63 : Tai nạn, bất an, hại trưởng nam

64 : Ly tán, tai nạn, bất an, hại trưởng nữ

65 : Bệnh tinh thần, đắc thì phát tài

66 : Hại trưởng nam, người già, đắc thì quan vận tốt, quyền hành, văn tài xuất hiện.

67 : Đao kiếm sát phạm đao thương, tổn tài, thị phi quan tụng

68 : Đại cát nhiều hỷ sự, lợi quan lộc

69 : Bệnh phế huyết hoả tai, hại cho cha già

 

Thất Xích

 

71 : Kim thuỷ đa tình đào hoa, ly hương xuất ngoại, tổn hại lục súc

72 : Khẩu thiệt thị phi hoả tai. đắc vận thì hợp thành Hoả tiên thiên lợi nhị hắc nên phát tài.

73 : Thương trưởng nam, bội nghĩa, thị phi, bệnh tật, quan phi

74 : Hại trưởng nữ, đao thương, bệnh thần kinh

75 : Nhiều bệnh bất an, tửu sắc phá tài

76 : Đao kiếm sát, tổn tài, sinh nhiều nữ

77 : Tổn tài, thị phi. Sinh vượng thì hỷ sự phát tài, sinh nhiều nữ

78 : Cầu tài danh đều lợi, nam nữ đa tình

79 : Tai nạn bệnh tâm khí, hại cho nữ nhỏ. Khải Toàn

 

Bát Bạch

 

81 : Hại trung nam, bệnh tai máu thận

82 : Bệnh tật, hại mẹ già, thiếu niên lao khổ, sinh vượng thì phát tài chủ tốt

83 : Bất lợi, ly hôn, hại thiếu nam

84 : Cô quả, khó sinh nở, hại thiếu nam

85 : Bệnh tật, tai nạn, hại thiếu nam

86 : Văn tài, thông minh cát lợi, sinh quý tử

87 : Sinh v ượng thì tốt cho thiếu nam, thiếu nữ, tài lộc vượng

88 : Đại cát, sinh nhiều con trai

89 : Đinh tài đều vượng nhiều hỷ sự

 

Cửu Tử

 

91 : Cách Thuỷ Hoả Ký Tế lợi văn chương, có nhiều danh vọng, công danh tốt.

92 : Phạm bệnh tật, bệnh mắt, phụ khoa

93 : Quan phi khẩu thiệt. Nếu sinh vượng sinh văn sĩ

94 : Đào hoa, hao tài

95 : Nhiều bệnh tật, hoả tai

96 : Sinh bệnh tật, bệnh não, thổ huyết, quan hình

97 : Phá tại, hại thiếu nữ, quan phi khẩu thiệt

98 : Cát lành hỷ sự

99 : Bệnh mắt bệnh thần kinh, sinh vượng thì tốt

Sự Tương Quan Của Ngũ Hành

Mối quan hệ giữa Ngũ hành thường được thể hiện thông qua các hình thức sau

Ngũ hành tương sinh

Mọi vật thể cần sự hỗ trợ và nuôi dưỡng từ những vật thể khác để phát triển. Vì vậy, mối quan hệ tương sinh phản ánh quá trình tăng trưởng và phát triển của các sự vật.

Nguyên lý ngũ hành tương sinh như sau:

– KIM sinh THỦY

– THỦY sinh MỘC

– MỘC sinh HỎA

– HỎA sinh THỔ

– THỔ sinh KIM.

Kim sinh Thủy không phải vì Kim bị đốt nóng và chảy ra thành nước, bởi lúc đó, Kim không chỉ ở dạng lỏng mềm mà còn đỏ chói và nóng bỏng, không thể gọi là “Thủy.” Thực sự, nguyên lý Kim sinh Thủy của cổ nhân là do lấy quẻ CÀN là biểu hiện của Trời, và Trời sinh ra mưa để tưới nhuần vạn vật, nên Thủy phát sinh từ Trời. Với quẻ CÀN có hành Kim, do đó nói Kim sinh Thủy là đúng. Mặt khác, trong Hậu thiên Bát quái của Văn Vương, Thủy là nguồn gốc phát sinh của vạn vật. Nếu không có Thủy, vạn vật không thể phát sinh trên trái đất. Do đó, việc lấy CÀN (KIM) sinh KHẢM (THỦY) là triết lý của người xưa nhìn nhận nguồn gốc của sự sống trên trái đất là từ Trời, là hồng ân của Thượng Đế. Vì vậy, Kim sinh Thủy không chỉ là một nguyên lý tâm linh và triết lý vô hình, mà còn là nguyên lý tối cao của học thuyết Ngũ hành tương sinh, vì nó là sự tương tác giữa Trời và Đất để tạo nên vạn vật. Các nguyên lý tương sinh khác chỉ là sự tương tác giữa các vật thể trên trái đất để duy trì sự sống, dễ hiểu và hình dung hơn.

 

Ngũ hành tương khắc

Khi bị sát phạt, mọi vật thể đều trải qua quá trình tàn tạ, thoái hóa. Do đó, quan hệ tương khắc là biểu hiện của quá trình suy vong và hủy diệt của sự vật.

Nguyên lý của Ngũ hành tương khắc là:

 

– KIM khắc MỘC.

– MỘC khắc THỔ.

– THỔ khắc THỦY.

– THỦY khắc HỎA.

– HỎA khắc KIM.

 

Trong những nguyên lý tương khắc chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau để đi đến sự hủy diệt. Như vậy, trong nguyên lý tương sinh, tương khắc của Ngũ hành, người xưa đã bao hàm cả triết lý sự sống là bắt nguồn từ Trời (Thượng Đế), nhưng trường tồn hay hủy diệt là do vạn vật trên trái đất quyết định mà thôi. Ngoài ra, nó cũng bao hàm hết cả quá trình Sinh-Vượng-Tử-Tuyệt của vạn vật rồi vậy.

 

Ngũ hành phản sinh

 

Tương sinh là quy luật phát triển của vạn vật, nhưng nếu sinh nhiều quá đôi khi lại trở thành tai hại. Điều này cũng tương tự như 1 em bé cần phải ăn uống cho nhiều thì mới mau lớn. Nhưng nếu ăn nhiều quá thì đôi khi có thể sinh bệnh tật hoặc tử vong. Đó là nguyên do có sự phản sinh trong Ngũ hành.

 

Nguyên lý của Ngũ hành phản sinh là:

Kim cần có Thổ sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp.

Thổ cần có Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ thành than.

Hỏa cần có Mộc sinh, nhưng Mộc nhiều thì Hỏa bị nghẹt.

Mộc cần có Thủy sinh, nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt.

Thủy cần có Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy bị đục.

 

Ngũ hành phản khắc

 

Khác với quy luật phản sinh, Ngũ hành phản khắc là khi một hành bị khắc, nhưng do lực của nó qúa lớn, khiến cho hành khắc nó đã không thể khắc được mà lại còn bị thương tổn, gây nên sự phản khắc.

 

Nguyên lý của Ngũ hành phản khắc là:

Kim khắc được Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị gãy.

Mộc khắc được Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị gầy yếu.

Thổ khắc được Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi dạt.

Thủy khắc được Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Thủy phải cạn.

Hỏa khắc được Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa sẽ tắt.

 

Cho nên trong sự tương tác giữa Ngũ hành với nhau không chỉ đơn thuần là tương sinh hay tương khắc, mà còn có những trường hợp phản sinh, phản khắc sẽ xảy ra nữa. Biết hết được những điều này thì khi ứng dụng vào Huyền không phi tinh mới đạt đến mức độ linh hoạt và tinh vi, chính xác hơn. Chẵng hạn như một ngôi nhà nơi phía ĐÔNG có các vận-sơn-hướng tinh 3-3-7. Nếu theo thông thường thì thấy 7 thuộc hành Kim khắc 3 thuộc hành Mộc, nên nếu nhà này có cửa ra vào tại nơi đó thì đoán là nhà sẽ có người bị gãy tay, chân vì Kim khắc Mộc. Nhưng nếu nhìn kỹ thì thấy nơi đó có tới hai sao hành Mộc. Lại thêm phía ĐÔNG cũng hành Mộc. Cho nên Mộc nơi này vượng, một sao Kim thế yếu không thể khắc được, mà còn bị phản khắc lại. Vì thế nhà này không có người bị gãy tay chân, mà chỉ có bị bệnh yếu phổi hay đau phổi mà thôi.

 

Lạc thư và Lượng thiên Xích

 

Lạc thư

 

Lạc thư, theo truyền thuyết, xuất hiện khi vua Đại Vũ trị thủy trên sông Lạc và gặp một con rùa thần nổi lên, trên lưng có hình Cửu tinh (?). Vua Đại Vũ sao chép nó và đặt tên là Lạc thư. Khẩu quyết của Lạc thư được mô tả như sau: “Đới Cửu, lý Nhất; tả Tam, hữu Thất; Nhị-Tứ vi kiên; Lục- Bát vi túc; Ngũ cư trung vị”. Điều này có nghĩa là: Trên đội 9, dưới đạp 1; bên trái 3, bên phải 7; 2 vai là 2 và 4; 2 chân là 6 và 8; còn 5 nằm chính giữa.

 

Lượng thiên Xích

 

Lượng thiên Xích, hay “Cửu tinh đãng quái,” là thứ tự di chuyển của Cửu tinh trong Lạc thư hoặc Hậu thiên Bát quái. Gọi là Lượng thiên xích vì nó được xem như một công cụ (Xích: cây thước) để đo lường (lượng) thiên vận (thiên). Nói một cách khác, “Lượng thiên Xích” là phương pháp tính toán để xác định giai đoạn cát, hung, họa, phước cho dương trạch và âm trạch. Sự di chuyển của Cửu tinh theo vòng Lượng thiên xích dựa vào thứ tự số trong Lạc thư (hoặc Hậu thiên Bát quái), bắt đầu từ trung cung. Nhìn vào thứ tự số trong Hậu thiên bát quái, số 5 nằm chính giữa, từ đó xuống số 6 ở phía TÂY BẮC, sau đó lên số 7 ở phía TÂY, vòng xuống số 8 ở phía ĐÔNG BẮC, tiếp theo lên số 9 ở phía NAM. Từ 9 đi xuống số 1 ở phía BẮC, sau đó lên số 2 ở phía TÂY NAM, rồi ngược lại số 3 ở phía ĐÔNG, tiếp theo đi xuống số 4 ở phía ĐÔNG NAM, và quay về trung cung là một chu kỳ đầy đủ. Do đó, quỹ đạo của vòng Lượng thiên xích như sau:

 

(1) Từ trung cung xuống TÂY BẮC.
(2) Từ TÂY BẮC lên TÂY.
(3) Từ TÂY xuống ĐÔNG BẮC.
(4) Từ ĐÔNG BẮC lên NAM.
(5) Từ NAM xuống BẮC.
(6) Từ BẮC lên TÂY NAM.
(7) Từ TÂY NAM sang ĐÔNG.
(8) Từ ĐÔNG lên ĐÔNG NAM.
(9) Từ ĐÔNG NAM trở về trung cung.

 

Đó là bí quyết di chuyển của Cửu tinh. Chỉ khi hiểu rõ nó, người ta mới có thể thực hiện bài bố tinh bàn cho một trạch vận và dự đoán được các giai đoạn cát, hung.

 

Hành trình di chuyển thuận, nghịch của Cửu tinh

Mặc dù Cửu tinh di chuyển theo một quỹ đạo cố định từ trung cung xuống phía TÂY BẮC, sau đó lên phía TÂY…, nhưng trong quá trình di chuyển, chúng tạo ra hai tình huống:

 

Di chuyển THUẬN: Theo thứ tự từ số nhỏ đến số lớn, ví dụ như từ 5 ở trung cung xuống 6 ở phía TÂY BẮC, rồi lên 7 ở phía TÂY, xuống 8 ở phía ĐÔNG BẮC…;

 

Di chuyển NGHỊCH: Theo thứ tự từ số lớn xuống số nhỏ, như từ 5 ở trung cung xuống 4 ở phía TÂY BẮC, lên 3 ở phía TÂY, xuống 2 ở phía ĐÔNG BẮC…

 

Sự di chuyển thuận, nghịch của Cửu tinh hoàn toàn dựa trên nguyên tắc phân biệt âm-dương của Tam nguyên long.

 

Đặc Điểm của Cửu Tinh Trong Nền Huyền Không Học

 

Nền Huyền Không dựa vào đặc điểm và hành trình di chuyển của 9 sao (hay Cửu Tinh, 9 con số) để dự đoán tình cảm, vận mệnh của từng căn nhà (dương trạch) hay khu vực mộ (âm trạch). Vì thế, hiểu rõ đặc điểm của từng sao, cũng như quỹ đạo di chuyển của chúng là kiến thức cơ bản mà bất kỳ người nào muốn khám phá hoặc nghiên cứu về Huyền Không cần phải nắm vững. Do đó, trước khi bước vào những nguyên tắc cơ bản của Huyền Không, việc biết về đặc điểm của Cửu Tinh là quan trọng.

 

Cửu Tinh, hay 9 con số từ 1 đến 9, mỗi con số đều có đặc điểm và thuộc tính Ngũ Hành riêng, tổng quan như sau:

 

Số 1, hay còn được biết đến là sao Nhất Bạch hoặc Tham Lang, mang những đặc điểm như sau:

 

  • Ngũ Hành: Thuộc Thủy.
  • Màu Sắc: Màu trắng.
  • Cơ Thể: Liên quan đến thận, tai và máu huyết.
  • Người: Thường là con trai thứ trong gia đình.
  • Tính Chất: Khi hài hòa hoặc kết hợp với các sao 4, 6, thường mang lại sự vượng lộc, thành công trong văn chương, danh tiếng, và sự thăng tiến trong sự nghiệp. Ngược lại, nếu không cân bằng, có thể gây ra các vấn đề về thận và máu huyết, cản trở sự tiến triển trong công danh và có thể gặp vấn đề liên quan đến trộm cướp.

 

Số 2, còn được gọi là sao Nhị Hắc hay Cự Môn, mang theo những đặc tính sau:

 

  • Ngũ Hành: Thuộc Thổ.
  • Màu Sắc: Màu đen.
  • Cơ Thể: Liên quan đến bụng và dạ dày.
  • Người: Thường là mẹ hoặc vợ trong gia đình.
  • Tính Chất: Khi ổn định, thường đem lại sự phát triển của gia đình, giàu có, và thành công trong võ nghệ. Nếu không ổn định, có thể xuất hiện vấn đề sức khỏe liên tục và khó khăn trong mối quan hệ gia đình.

 

Số 3, hay còn được biết đến là sao Tam Bích hoặc Lộc Tồn, mang theo những đặc điểm như sau:

 

  • Ngũ Hành: Thuộc Mộc.
  • Màu Sắc: Màu xanh lá cây.
  • Cơ Thể: Liên quan đến mật, vai và hai tay.
  • Người: Thường là con trai trưởng trong gia đình.
  • Tính Chất: Khi ổn định, con trưởng thường phát đạt, có lợi cho kinh doanh, và vợ cả tốt. Nếu không ổn định, có thể gây ra khắc vợ và xung đột pháp lý.

 

Số 4, hay còn gọi là sao Tứ Lục hoặc Văn Xương, mang theo những đặc điểm như sau:

 

  • Ngũ Hành: Thuộc Mộc.
  • Màu Sắc: Màu xanh dương (xanh nước biển).
  • Cơ Thể: Liên quan đến gan, đùi và hai chân.
  • Người: Thường là con gái trưởng trong gia đình.
  • Tính Chất: Khi ổn định hoặc kết hợp với sao Nhất Bạch, thường đem lại danh tiếng văn chương, thành công cao cấp, và con gái xinh đẹp, kết hôn với người giàu có. Nếu không ổn định, có thể xuất hiện nguy cơ mất ổn định trong gia đình, sự dối trá và vấn đề về tâm thần.

 

Số 5, còn gọi là sao Ngũ Hoàng, mang theo những đặc điểm như sau:

 

  • Ngũ Hành: Thuộc Thổ.
  • Màu Sắc: Màu vàng.
  • Cơ Thể và Người: Thông tin không được cung cấp.
  • Tính Chất: Khi vượng, thường mang lại tài lộc, sự thịnh vượng và danh tiếng. Ngược lại, nếu không ổn định, có thể gây ra nhiều rủi ro, bệnh tật, tai nạn, và thậm chí là tử vong.

 

Số 6, hay còn được gọi là sao Lục Bạch hoặc Vũ Khúc, mang theo những đặc điểm như sau:

 

  • Ngũ Hành: Thuộc Kim.
  • Màu Sắc: Màu trắng, bạc.
  • Cơ Thể: Liên quan đến đầu, mũi, cổ, xương, và ruột già.
  • Người: Thường là chồng hoặc cha trong gia đình.
  • Tính Chất: Khi ổn định hoặc kết hợp với sao Nhất Bạch, thường đem lại sự nổi tiếng, thành công cả về văn chương và võ nghệ. Nếu không ổn định, có thể gây ra khắc vợ, mất con, và dễ bị liên quan đến các vấn đề pháp lý, xương cốt dễ gãy.

Số 7, hay còn gọi là sao Thất Xích hoặc Phá Quân, mang theo những đặc điểm như sau:

 

  • Ngũ Hành: Thuộc Kim.
  • Màu Sắc: Màu đỏ.
  • Cơ Thể: Liên quan đến phổi, miệng, và lưỡi.
  • Người: Thường là con gái út trong gia đình.
  • Tính Chất: Khi ổn định, thường mang lại thành công trong võ nghệ hoặc kinh doanh. Nếu không ổn định, có thể gặp vấn đề về an ninh, mất mát, và khó khăn trong mối quan hệ, có thể liên quan đến tai họa và thị phi.

Số 8, hay còn gọi là sao Bát Bạch hoặc Tả Phù, mang theo những đặc điểm như sau:

 

  • Ngũ Hành: Thuộc Thổ.
  • Màu Sắc: Màu trắng.
  • Cơ Thể: Liên quan đến lưng, ngực, và lá lách.
  • Người: Thường là con trai út trong gia đình.
  • Tính Chất: Khi ổn định, thường mang lại sự thịnh vượng với nhiều đất đai, nhà cửa, và con cái hiếu thảo. Nếu không ổn định, có thể gặp vấn đề với con nhỏ, dễ bị ảnh hưởng bởi các bệnh truyền nhiễm.

 

Số 9, hay còn được biết đến là sao Cửu Tử hay Hữu Bật, mang theo những đặc điểm như sau:

 

  • Ngũ Hành: Thuộc Hỏa.
  • Màu Sắc: Màu đỏ tía.
  • Cơ Thể: Liên quan đến mắt, tim, và ấn đường.
  • Người: Thường là con gái thứ trong gia đình.
  • Tính Chất: Khi ổn định, thường mang lại nhiều tài năng văn chương, sự nổi tiếng, và cuộc sống lâu dài. Nếu không ổn định, có thể gặp vấn đề với tai họa do yếu tố hỏa, rủi ro trong chính trường, vấn đề sức khỏe như thổ huyết, rối loạn tâm thần, đau mắt, và khó khăn trong quá trình sinh đẻ.

 

Sơn, Hướng, và Nguyên Long

 

24 Sơn, 8 Hướng trên la bàn

 

Trong Hậu Thiên Bát Quái của Văn Vương, chia làm 8 hướng đồng đều, mỗi hướng liên kết với một số của Cửu Tinh: hướng BẮC (số 1), ĐÔNG BẮC (số 8), ĐÔNG (số 3), ĐÔNG NAM (số 4), NAM (số 9), TÂY NAM (số 2), TÂY (số 7), TÂY BẮC (số 6). Số 5, nằm ở trung tâm (trung cung), không được liên kết với hướng cụ thể. Áp dụng lên la bàn với tổng cộng 360 độ, mỗi hướng (hoặc số) sẽ chiếm 45 độ.

 

Trong giai đoạn phôi phai của nghiên cứu Phong Thủy (thời nhà Chu), sự chia la bàn thành 8 hướng được coi là cực kỳ tinh tế và chính xác. Tuy nhiên, sau này, khi Phong Thủy phát triển mạnh mẽ dưới thời kỳ Đường – Tống, khoảng cách 45 độ được xem là quá lớn và chưa đủ chính xác. Để tăng độ chính xác, người ta quyết định chia mỗi hướng thành 3 sơn đồng đều, mỗi sơn chiếm 15 độ. Do đó, trên la bàn xuất hiện 24 sơn. Để đặt tên cho 24 sơn, người ta sử dụng 12 Địa Chi, 8 Thiên Can (đúng ra là 10, nhưng 2 Can Mậu-Kỷ được quy về trung cung cho Ngũ Hoàng nên chỉ còn 8 Can), và 4 quẻ Càn-Khôn-Cấn-Tốn.

 

Hướng Địa nguyên long Thiên nguyên long Nhân nguyên long
số 1: BẮCGồm 3 sơn NHÂM (+) TÝ (-) QUÝ (-)
số 2 TÂY NAM : 3 sơn MÙI (-) KHÔN (+) THÂN (+)
số 3 ĐÔNG : 3 sơn GIÁP (+) MÃO (-) ẤT (-)
số 4 ĐÔNG NAM3 sơn THÌN (-) TỐN (+) TỴ (+)
số 5 TRUNG CUNG 
số 6 TÂY BẮC: 3 sơn TUẤT (-) CÀN (+) HỢI (+)
số 7 TÂY: 3 sơn CANH (+) DẬU (-) TÂN (-)
số 8 ĐÔNG BẮC3 sơn SỬU (-) CẤN (+) DẦN (+)
số 9 NAM : 3 sơn BÍNH (+) NGỌ (-) ĐINH (-)
Tam nguyên long bao gồm: ĐỊA NGUYÊN LONG THIÊN NGUYÊN LONG NHÂN NGUYÊN LONG
sơn dương  (+) GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN DẦN, THÂN, TỴ, HỢI
sơn âm (-) THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ

Tất cả 24 sơn trên la bàn được sắp xếp theo thứ tự từ trái sang phải theo chiều kim đồng hồ. Ví dụ, hướng BẮC bao gồm 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ. Sơn NHÂM chiếm 15 độ ở bên trái, sơn TÝ chiếm 15 độ chính giữa hướng BẮC, và sơn QUÝ chiếm 15 độ ở bên phải. Tất cả các sơn khác cũng tuân theo thứ tự này.

 

Mỗi sơn được định vị bằng số độ chính giữa như sau: sơn NHÂM tại 345 độ; TÝ 360 độ hoặc 0 độ; QUÝ 15 độ; SỬU 30 độ; CẤN 45 độ; DẦN 60 độ; GIÁP 75 độ; MÃO 90 độ; ẤT 105 độ; THÌN 120 độ; TỐN 135 độ; TỴ 150 độ; BÍNH 165 độ; NGỌ 180 độ; ĐINH 195 độ; MÙI 210 độ; KHÔN 225 độ; THÂN 240 độ; CANH 255 độ; DẬU 270 độ; TÂN 285 độ; TUẤT 300 độ; CÀN 315 độ; HỢI 330 độ.

 

Đây là tọa độ chính giữa của 24 sơn. Từ tọa độ này, có thể xác định phạm vi mỗi sơn trên la bàn bằng cách đi ngược về phía trái và phải từ tọa độ trung tâm, mỗi bước là 7 độ 5 (vì mỗi sơn chiếm 15 độ).

 

Ví dụ, hướng MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ. Nếu đi ngược về bên trái 7 độ 5 (hay trừ đi 7 độ 5), ta được 202 độ 5. Ngược lại, nếu đi theo chiều thuận qua bên phải 7 độ 5 (hay cộng thêm 7 độ 5), ta có 217 độ 5. Phạm vi của sơn MÙI sẽ nằm từ 202 độ 5 đến 217 độ 5 trên la bàn.

 

Chính Hướng và Kiêm Hướng

 

Chính Hướng và Kiêm Hướng trong Phong thủy thường khiến người mới học cảm thấy khó hiểu. Nhưng thực tế, điều này không phức tạp lắm. Khi xác định hướng nhà (hoặc mộ) và thấy nó nằm trên tọa độ trung tâm của một sơn (bất kỳ sơn nào), đó được coi là Chính Hướng. Ngược lại, nếu không khớp với tọa độ trung tâm của bất kỳ sơn nào, đó là Kiêm Hướng. Kiêm Hướng có thể chia thành Kiêm bên phải hoặc bên trái, và có thể kiêm nhiều hoặc ít.

 

Nếu là Kiêm bên phải hoặc bên trái, hướng nhà không còn được xem là thuần khí, vì đã chạm vào phạm vi của sơn bên cạnh (sẽ được giải thích rõ hơn trong phần Tam nguyên long). Để nói đến việc kiêm phải hay kiêm trái, ta sử dụng tọa độ trung tâm của mỗi sơn làm trung tâm cho tính toán. Ví dụ, sơn MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ. Nếu một căn nhà hướng 215 độ, nó thuộc hướng MÙI (vì sơn MÙI bắt đầu từ khoảng 202 độ 5 và kết thúc tại 217 độ 5), nhưng lại kiêm bên phải 5 độ. Trong thuật ngữ Phong thủy, người ta không nói kiêm phải hoặc trái, mà thay vào đó, sử dụng tên của hướng kiêm để mô tả chung với hướng của ngôi nhà. Ví dụ, nhà này được mô tả là “hướng MÙI kiêm KHÔN 5 độ,” tức là kiêm sang bên phải 5 độ.

 

Về vấn đề kiêm nhiều hay ít, nếu một hướng chỉ lệch sang bên phải hoặc bên trái khoảng 3 độ so với tọa độ trung tâm của nó, thì được xem là kiêm ít và vẫn giữ được thuần khí của hướng đó. Ngược lại, nếu lệch quá 3 độ so với trung tâm của một hướng, thì coi là lệch nhiều, khiến khí lúc đó không còn thuần và có thể bị nhiễm tạp khí. Trong những trường hợp như vậy, cần phải sử dụng Thế quái (hoặc số thế, sẽ thảo luận trong một dịp khác) để hy vọng mang đến vượng khí cho hướng và biến nhược điểm thành cát.

 

Tam nguyên long

 

Tam nguyên long là một phần quan trọng trong việc xác định hướng và địa khí của long mạch, cũng như là phương hướng của trái đất. Nó bao gồm Địa nguyên long, Thiên nguyên long và Nhân nguyên long. Mỗi nguyên lại chia thành 8 sơn (hoặc 8 hướng), trong đó có 4 sơn dương và 4 sơn âm, như sau:

 

– THIÊN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn :

* 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.

* 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU.

 

– ĐỊA NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:

* 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH.

* 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.

 

– NHÂN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:

* 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.

* 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ.

 

Với sự phân định âm hay dương của mỗi hướng như đã nêu trên, ta có thể dự đoán khi nào phi tinh sẽ di chuyển thuận hoặc ngược theo vòng LƯỢNG THIÊN XÍCH (chi tiết sẽ được thảo luận trong phần lập tinh bàn cho trạch vận).

 

Ngoài ra, nếu quan sát kỹ sự phân chia của Tam nguyên Long, chúng ta sẽ nhận thấy mỗi hướng của Bát quái được chia thành 3 sơn, bao gồm cả ba Nguyên: Địa, ThiênNhân, theo chiều kim đồng hồ.

 

Ví dụ, hướng BẮC được chia thành 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ:

 

NHÂM thuộc Địa nguyên long (bên trái) và có tính chất Nghịch tử.

TÝ thuộc Thiên nguyên long (giữa) và là quẻ Phụ mẫu.

QUÝ thuộc Nhân nguyên long (bên phải) và có tính chất Thuận tử.

 

Tất cả các hướng khác cũng tuân theo quy luật này, tức là Thiên nguyên long nằm ở giữa, Địa nguyên long nằm bên trái, và Nhân nguyên long nằm bên phải. Dựa vào đó, ta có thể phân biệt Thiên nguyên long là quẻ Phụ mẫu, Địa nguyên long là Nghịch tử (vì nằm bên trái của Thiên nguyên long, tức là nghịch chiều xoay chuyển của vạn vật), còn Nhân nguyên long là Thuận tử. Trong 3 nguyên Địa-Thiên-Nhân, Thiên và Nhân có thể kiêm được với nhau (vì nằm giữa phụ mẫu và thuận tử). Ngược lại, Địa nguyên long là nghịch tử chỉ đứng một mình, không thể kiêm phụ mẫu hay thuận tử. Nếu Địa kiêm Thiên, âm dương sẽ lẫn lộn (hay âm dương sai thố). Nếu Địa kiêm Nhân, sẽ xuất hiện quái vật.

– Ví dụ: Nếu nhà hướng MÙI 205 độ, vì hướng MÙI bắt đầu từ 202 độ 5, nên nhà hướng 205 độ vẫn thuộc hướng MÙI, nhưng kiêm sang phía bên trái 5 độ, tức là kiêm hướng Đinh 5 độ. Hướng MÙI thuộc Địa nguyên long (tức là Nghịch tử), chỉ có thể chọn chính hướng (210 độ) mà không thể kiêm hướng. Vì vậy, trong trường hợp này, nhà phạm xuất quái, dự báo mang theo tai họa và sự bần tiện. Ngược lại, nếu 1 căn nhà hướng là 185 độ, tức là hướng NGỌ kiêm ĐINH 5 độ. NGỌ là quẻ Phụ mẫu, kiêm sang bên phải tức là kiêm Thuận tử, nên nhà như thế vẫn được xem là tích cực chứ không phải xấu. Đây là một trong những điều cơ bản và quan trọng của Huyền không Học, yêu cầu sự nhạy bén và phân biệt rõ ràng. Chỉ khi hiểu rõ những yếu tố này, chúng ta mới có thể thấy sự chênh lệch giữa hai căn nhà cùng một trạch vận, khi mà một nhà thịnh vượng, đẳng cấp và lịch lãm, trong khi nhà khác lại bình thường, nhỏ bé, và không có tầm ảnh hưởng lớn. Do đó, khả năng chọn hướng đúng hoặc kiêm hướng có thể quyết định sự quý giá hay phổ thông của một căn nhà. Những khía cạnh này sẽ được mở rộng và thảo luận chi tiết hơn trong phần Lập hướng và Kiêm hướng.

 

Ví dụ khác như hướng NAM được chia thành 3 sơn là BÍNH – NGỌ – ĐINH:

 

BÍNH thuộc Địa nguyên long (bên trái) và có tính chất Nghịch tử.

NGỌ thuộc Thiên nguyên long (giữa) là quẻ Phụ mẫu.

ĐINH thuộc Nhân nguyên long (bên phải) với tính chất Thuận tử.

 

Phương Pháp Lập Tinh Bàn

 

Để lập tinh bàn (hay trạch vận) cho một căn nhà hoặc ngôi mộ, bước đầu quan trọng là biết năm và tháng nào căn nhà hay ngôi mộ đó được xây dựng. Dựa vào bảng Tam Nguyên Cửu Vận gần đây nhất để xác định vận của nhà đó. Chẳng hạn, nếu một căn nhà hoàn thành vào tháng 6 năm 1984, thì nhìn vào bảng Cửu Vận, ta thấy Vận 7 bắt đầu từ 1984 và kết thúc vào cuối năm 2003, do đó căn nhà đó thuộc vận 7 – Hạ Nguyên.

 

Tuy nhiên, việc xác định vận của một căn nhà trở nên phức tạp khi nó đã trải qua nhiều lần tu sửa, xây lại, hoặc thay đổi chủ nhân. Trong những trường hợp này, các yếu tố sau đây phải được xem xét:

 

Nếu sau một thời gian sống trong nhà, chủ nhà tiến hành việc dỡ mái lợp lại (đối với nhà trệt), tu sửa quá 1/3 diện tích căn nhà, hoặc đập đi xây mới thì căn nhà, thì căn nhà sẽ không còn thuộc vận khi mới xây nhà hoặc dọn vào lúc đầu, mà sẽ chuyển sang vận của thời điểm tu sửa.

 

Nếu căn nhà được đổi chủ (do mua bán hoặc cho thuê), khi lập tinh bàn cho chủ mới, thì cần dựa vào thời điểm họ dọn vào ở, chứ không phải là thời điểm xây dựng căn nhà. Đối với những căn nhà có nhiều chủ nhân, việc lập tinh bàn cho mỗi người chủ sẽ dựa vào thời điểm họ dọn vào, không liên quan đến thời điểm xây dựng nhà. Ví dụ, căn nhà trên được xây xong và dọn vào ở vào tháng 6 năm 1984, thuộc vận 7. Nếu vào năm 2000, chủ nhân bán nhà cho người khác, thì khi người này dọn vào nhà, trạch vận vẫn thuộc vận 7 (vì vận 7 kéo dài từ năm 1984 đến cuối năm 2003). Nếu người mới ở đến năm 2005 rồi lại bán nhà, khi chủ nhân mới dọn vào thì trạch vận của họ sẽ là vận 8 (vận 8 bắt đầu từ năm 2004 và kết thúc vào cuối năm 2023). Do đó, trạch vận của một căn nhà sẽ được xác định theo thời điểm chủ nhân dọn vào, không phải thời điểm xây nhà hay đổi chủ.

 

– Đối với những căn nhà đã trải qua cả việc tu sửa và thay đổi chủ như trong trường hợp 1 và trường hợp 2, thì trạch vận của căn nhà sẽ thuộc về vận xảy ra gần nhất. Ví dụ, nhà được xây năm 1984 (vận 7), sau đó bán lại vào năm 2000 (vẫn thuộc vận 7). Tuy nhiên, khi người mới mua vào năm 2004 tiến hành tu sửa, căn nhà sẽ chuyển sang vận 8. Khi bán nhà vào năm 2005, căn nhà vẫn giữ trạch vận của chủ mới, là vận 8.

 

– Đối với những căn nhà không thay đổi chủ và không được tu sửa, nhưng nếu chủ nhà đi vắng hơn 1 tháng, khi họ trở về, căn nhà sẽ chuyển sang thuộc vận của thời điểm trở về, không giữ trạch vận cũ nữa. Ví dụ, nhà xây năm 1984, chủ nhân sống trong đó hơn 20 năm. Năm 2005, họ đi vắng hơn 2 tháng. Khi trở về, căn nhà sẽ thuộc vận 8, không còn thuộc vận 7 nữa.

 

– Đối với những căn nhà được xây hoặc dọn vào ở trong những năm cuối của một vận, trạch vận của căn nhà thường thuộc về vận mới, không giữ vận cũ nữa. Ví dụ, căn nhà xây hoặc dọn vào ở năm 2003, là năm cuối cùng của vận 7, thì trạch vận của căn nhà sẽ là vận 8, không thuộc vận 7.

 

– Đối với âm phần (mồ mả), trạch vận được tính khi ngôi mộ mới được xây, hoặc sau này khi con cháu thực hiện việc cải táng hay tu sửa mộ bia. Ví dụ, ngôi mộ được xây vào năm 1987 thuộc vận 7, nhưng nếu con cháu xây mộ mới hoặc thay bia vào năm 2006, lúc đó mộ sẽ thuộc về vận 8.

 

Sau khi biết cách xác định vận của nhà (hoặc mộ), ta có thể tiến hành lập tinh bàn. Đầu tiên, vẽ một ô vuông lớn trên một tờ giấy trắng, sau đó chia ô vuông thành 9 ô nhỏ, với 8 ô chung quanh đại diện cho 8 hướng: BẮC, ĐÔNG BẮC, ĐÔNG, ĐÔNG NAM, NAM, TÂY NAM, TÂY, và TÂY BẮC. Ô giữa được xem như là trung cung. Sau đó, có thể tiến hành lập tinh bàn.

 

Lập Vận Bàn

 

Để lập Vận Bàn, bắt đầu bằng việc xác định số Vận của căn nhà (hoặc ngôi mộ) và đưa nó vào trung cung. Đặt số này ở trên cao và chính giữa của trung cung, sau đó di chuyển THUẬN theo vòng Lượng Thiên Xích.

 

Ví dụ, nhà xây năm 1984 thuộc Vận 7. Đặt số 7 vào trung cung và di chuyển THUẬN qua số 8 ở phía TÂY BẮC, số 9 ở phía TÂY, số 1 ở phía ĐÔNG BẮC, số 2 ở phía NAM, số 3 ở phía BẮC, số 4 ở phía TÂY NAM, số 5 ở phía ĐÔNG, và số 6 ở phía ĐÔNG NAM. Những số này được gọi là “Vận Tinh” (phi tinh của Vận) của căn nhà và đều được đặt an tại trên cao và chính giữa của mỗi cung. Lưu ý rằng việc di chuyển phi tinh chỉ xảy ra theo hướng “THUẬN”, tức là từ số nhỏ đến số lớn, không bao giờ ngược lại.

 

Lập Sơn Bàn

 

Theo thuật ngữ Phong Thủy, “Sơn” (núi) chỉ khu vực phía sau nhà (phương “tọa”). Sau khi đã an Vận Bàn, xác định số nào đến khu vực phía sau của căn nhà. Đặt số này vào trung cung, nhưng tại góc dưới bên trái. Tính tọa của căn nhà để biết nó thuộc sơn nào, và sau đó phối hợp với Tam Nguyên Long của Vận Tinh để quyết định hướng di chuyển theo chiều “THUẬN” hoặc “NGHỊCH”.

 

Ví dụ, nếu căn nhà có hướng là 0 độ, tọa của nó sẽ là 180 độ. Căn nhà này sẽ thuộc tọa NGỌ, hướng TÝ. Nếu xây năm 1984 thuộc Vận 7, lấy số 7 nhập trung cung và di chuyển Thuận, 2 tới NAM là phương tọa. Để lập Sơn Bàn, lấy số 2 nhập trung cung (ở góc dưới bên trái). Để biết nó di chuyển “THUẬN” hay “NGHỊCH”, xem Tam Nguyên Long của số 2 là gì. Số 2 (hướng TÂY NAM) có 3 sơn là MÙI-KHÔN-THÂN, trong đó MÙI là âm và KHÔN-THÂN là dương. Tọa của căn nhà nằm tại sơn NGỌ (phía NAM) với 3 sơn BÍNH-NGỌ-ĐINH. Tại đây, sơn KHÔN của số 2 trùng với sơn KHÔN của phương TẤT. Do đó, lập Sơn Bàn bằng cách lấy số 2 và di chuyển theo chiều “THUẬN”, 3 tới TÂY BẮC, 4 tới TÂY, 5 tới ĐÔNG BẮC, 6 tới NAM, 7 tới BẮC, 8 tới TÂY NAM, 9 tới ĐÔNG, và 1 tới ĐÔNG NAM. Tất cả các số này được gọi là “Sơn Tinh” (phi tinh của phương tọa) của trạch vận, với sơn tinh số 6 ở góc phía dưới bên trái của mỗi cung để phân biệt chúng với “Vận Tinh” và “Hướng Tinh”.

Hướng Địa nguyên long Thiên nguyên long Nhân nguyên long
số 1: BẮCGồm 3 sơn NHÂM (+) TÝ (-) QUÝ (-)
số 2 TÂY NAM : 3 sơn MÙI (-) KHÔN (+) THÂN (+)
số 3 ĐÔNG : 3 sơn GIÁP (+) MÃO (-) ẤT (-)
số 4 ĐÔNG NAM3 sơn THÌN (-) TỐN (+) TỴ (+)
số 5 TRUNG CUNG 
số 6 TÂY BẮC: 3 sơn TUẤT (-) CÀN (+) HỢI (+)
số 7 TÂY: 3 sơn CANH (+) DẬU (-) TÂN (-)
số 8 ĐÔNG BẮC3 sơn SỬU (-) CẤN (+) DẦN (+)
số 9 NAM : 3 sơn BÍNH (+) NGỌ (-) ĐINH (-)
Tam nguyên long bao gồm: ĐỊA NGUYÊN LONG THIÊN NGUYÊN LONG NHÂN NGUYÊN LONG
sơn dương  (+) GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN DẦN, THÂN, TỴ, HỢI
sơn âm (-) HÌN, TUẤT, SỬU, MÙI TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ

 

Lập Hướng Bàn

 

Sau khi hoàn thành việc lập “Sơn Bàn”, chúng ta chuyển sang lập Hướng Bàn. Quá trình này tương tự như việc lập Sơn Bàn, nghĩa là xác định “Vận Tinh” hướng về phía trước nhà. Lấy số đó và đưa vào trung cung, nhưng đặt ở góc dưới bên phải. Sau đó, xác định hướng của căn nhà là thuộc sơn nào? Kế đó, PHỐI HỢP với Tam Nguyên Long của Vận Tinh để quyết định di chuyển “THUẬN” hay “NGHỊCH”.

 

Ví dụ, giữ nguyên ví dụ về căn nhà tọa NGỌ hướng TÝ, thuộc Vận 7 như trước đó. Nhận thấy Vận Tinh số 3 hướng ĐÔNG. Số 3 thuộc sơn GIÁP-MÃO-ẤT, trong đó GIÁP là dương, còn MÃO-ẤT là âm trong Tam Nguyên Long. Hướng nhà nằm về phía BẮC với 3 sơn NHÂM-TÝ-QUÝ. Áp đặt 3 sơn GIÁP-MÃO-ẤT của số 3 lên 3 sơn NHÂM-TÝ-QUÝ của phía BẮC, nhưng vì hướng của căn nhà trùng với sơn TÝ. Vì sơn TÝ thuộc âm trong Tam Nguyên Long, nên lấy số 3 nhập trung cung và di chuyển theo chiều “NGHỊCH”, tức là 2 tới TÂY BẮC, 1 tới TÂY, 9 tới ĐÔNG BẮC, 8 tới NAM, 7 tới BẮC, 6 tới TÂY NAM, 5 tới ĐÔNG, 4 tới ĐÔNG NAM. Tất cả những số này được gọi là “Hướng Tinh” (phi tinh của Hướng) của trạch vận, với hướng tinh số 7 nằm ở phía hướng, trong Vận 7, căn nhà được coi là “vượng tinh tới hướng,” điều này giúp nó trở thành một ngôi nhà tích cực. Tất cả Hướng Tinh đều được đặt an tại góc phía dưới bên phải của mỗi cung.

 

Như vậy, khi đã hoàn thành lập “Vận Bàn”, “Sơn Bàn,” và “Hướng Bàn,” chúng ta sẽ xác định được vị trí của mọi Vận Tinh, Sơn Tinh, và Hướng Tinh. Đây chính là trạch vận của một căn nhà hoặc một phần mộ. Qua đó, kết hợp với địa thế xung quanh và cấu trúc bên trong của ngôi nhà, người học Phong Thủy Huyền Không có thể dự đoán mọi diễn biến tốt và xấu đã, đang và sẽ xảy ra cho căn nhà đó.

 

Cuối cùng, điều mà người học Huyền Không cần nhớ là khi muốn lập Sơn Bàn hoặc Hướng Bàn, nếu tọa hoặc hướng nhà trùng với “sơn” DƯƠNG của Vận Tinh, thì di chuyển “THUẬN”; nếu trùng với “sơn” ÂM của Vận Tinh, thì di chuyển “NGHỊCH”. Điều này có nghĩa là việc di chuyển “THUẬN” hoặc “NGHỊCH” của Sơn và Hướng Tinh hoàn toàn phụ thuộc vào “SƠN” của Vận Tinh có trùng với tọa và hướng nhà là DƯƠNG hay ÂM. Nói cách khác, chỉ có khi lập Tinh Bàn cho Sơn và Hướng Bàn mới có trường hợp phi tinh di chuyển theo chiều “NGHỊCH”. Trong tất cả các trường hợp khác, phi tinh sẽ di chuyển theo chiều “THUẬN,” tức là từ số nhỏ lên số lớn.

 

Tam Nguyên, Cửu Vận

 

Khác với những trường phái Phong thủy phổ biến như Loan đầu, Mật tông, Bát trạch, Huyền Không không chỉ dựa vào địa thế và hình cục ngoại, nội, mà còn tích hợp yếu tố thời gian để đoán định sự vượng, suy, được, mất của âm-dương trạch.

 

Một căn nhà có thể xây dựng trên mảnh đất có địa thế tốt (hoặc xấu), nhưng không vì thế mà nó sẽ luôn tốt (hoặc xấu) vĩnh viễn. Tình trạng này phụ thuộc vào biến động của thời gian, có thể từ vượng chuyển sang suy, hoặc từ suy chuyển về vượng. Đây là lý do tại sao nhiều gia đình, sau khi chuyển đến 1 căn nhà mới, có thể thành công nhanh chóng, nhưng sau 5, 10 năm lại trải qua suy thoái. Hoặc có những gia đình sống khó khăn trong 1 căn nhà, nhưng sau vài chục năm, với sự thành công của con cái, gia đình lại đột ngột phồn thịnh. Đối với Phong thủy Huyền Không, quan sát không chỉ dừng lại ở địa hình, địa vật bên ngoài, cấu trúc, thiết kế bên trong của căn nhà, mà còn yêu cầu nắm vững từng giai đoạn tăng giảm trong chu kỳ 1 trạch vận (nhà ở hay phần mộ). Vì thời gian là một sự biến đổi vô hình, chỉ đi về phía trước, không bao giờ quay trở lại, vậy nên làm thế nào để xác định thời gian? Để giải quyết vấn đề này, người xưa đã chia thời gian thành từng Nguyên và Vận. Nguyên là 1 giai đoạn lớn khoảng 60 năm, hay 1 Lục thập Hoa Giáp. Mỗi Nguyên lại được chia thành 3 Vận, mỗi Vận kéo dài khoảng 20 năm. Cũng như vậy, Tam Nguyên được xác định như sau:

 

– Thượng Nguyên: bao gồm 3 Vận 1, 2, 3.

– Trung Nguyên: bao gồm 3 Vận 4, 5, 6.

– Hạ Nguyên: bao gồm 3 Vận 7, 8, 9.

 

Tam Nguyên Cửu Vận có tổng cộng là 180 năm, hoạt động từ Vận 1 (bắt đầu vào năm GIÁP TÝ) đi hết 3 Nguyên (tức là 9 Vận), rồi quay trở lại Vận 1 của Thượng Nguyên. Chu kỳ này lặp lại không ngừng. Người xưa sử dụng chu kỳ 180 năm (tức Tam Nguyên Cửu Vận) như là mốc xoay chuyển thời gian, vì các hành tinh trong Thái Dương hệ cứ sau 180 năm lại quay trở về cùng một đường thẳng. Điều này tương ứng với năm bắt đầu của Vận 1 của Thượng Nguyên. Bằng cách này, người ta có thể xác định Tam Nguyên Cửu Vận gần đây nhất là:

 

THƯỢNG NGUYÊN:

Vận 1: từ năm 1864- 1883

Vận 2: từ năm 1884- 1903

Vận 3: từ năm 1904- 1923.

 

TRUNG NGUYÊN :

Vận 4: từ năm 1924- 1943

Vận 5: từ năm 1944- 1963

Vận 6: từ năm 1964- 1983

 

HẠ NGUYÊN:

Vận 7: từ năm 1984- 200

Vận 8: từ năm 2004- 2023

Vận 9: từ năm 2024- 2043

 

Như vậy, năm 2043 là năm cuối cùng của Vận 9 Hạ Nguyên. Vào năm 2044 (tức là năm GIÁP TÝ), chu kỳ sẽ quay trở lại Vận 1 của Thượng Nguyên, và tiếp tục xoay chuyển không ngừng. Điều quan trọng đối với những người mới học Huyền Không là phải nhận biết được năm nào thuộc Vận và Nguyên nào. Ví dụ, năm 1980 thuộc Vận 6 Trung Nguyên, vì nó nằm trong chu kỳ từ năm 1964-1983. Hoặc năm 1991 thuộc Vận 7 Hạ Nguyên, trong khoảng từ năm 1984-2003. Đối với những ngôi nhà hay mộ được xây dựng trong năm 1991, chúng sẽ thuộc Vận 7 Hạ Nguyên, và những ngôi nhà xây dựng trong năm 1980 sẽ thuộc Vận 6 Trung Nguyên. Chỉ khi nắm vững điều này, người ta mới có thể xây dựng trạch vận cho ngôi nhà hay mộ.

 

số 1: BẮC: Gồm 3 sơn NHÂM (+) –TÝ (-) – QUÝ (-)

số 8 ĐÔNG BẮC: 3 sơn SỬU (-) – CẤN (-+) – DẦN (+)

số 3 ĐÔNG : 3 sơn GIÁP (+) – MÃO (-) – ẤT (-)

số 4 ĐÔNG NAM: 3 sơn THÌN (-) – TỐN (+) – TỴ (+)

số 9 NAM : 3 sơn BÍNH (+) – NGỌ (-) – ĐINH (-)

số 2 TÂY NAM : 3 sơn MÙI (-) – KHÔN (+) – THÂN (+)

số 7 TÂY: 3 sơn CANH (+) – DẬU (-) – TÂN (-)

số 6 TÂY BẮC: 3 sơn TUẤT (-) – CÀN (+) – HỢI (+)

số 5 TRUNG CUNG 0 sơn

 

Vượng Sơn, Vượng Hướng

 

Sau khi đã xác định được tinh bàn (hay trạch vận) cho một căn nhà, bước quan trọng tiếp theo là định rõ những khu vực nào chứa sinh – vượng khí và những khu vực nào chứa suy – tử khí trong căn nhà đó. Điều này rất đơn giản bằng cách dựa vào thời điểm đang xem xét Phong thủy cho căn nhà, xác định căn nhà thuộc vận nào, và sử dụng vận đó như là mốc chuẩn. Tiếp theo, quan sát 9 cung của trạch bàn. Nếu cung nào có Hướng tinh giống số của Vận hiện tại, đó được xem là có VƯỢNG KHÍ. Những cung có 2 số tiếp theo sau vượng khí được xem là có SINH KHÍ. Cung nào có số trước số của vượng khí được coi là có SUY KHÍ. Những cung có số trước vượng khí từ 2 số trở lên được xem là có TỬ KHÍ. Điều này áp dụng cho cả Hướng tinh và Sơn tinh, còn Vận tinh thì ít quan trọng và không cần xét tới.

 

VƯỢNG KHÍ: Hướng tinh giống số với Vận hiện tại thì khu vực đó có VƯỢNG KHÍ.

SINH KHÍ: Cung có 2 số tiếp theo sau vượng khí được xem là có SINH KHÍ.

SUY KHÍ: Cung có số trước số của vượng khí thì có SUY KHÍ.

TỬ KHÍ: Cung có những số trước vượng khí từ 2 số trở lên được coi là có TỬ KHÍ.

 

Ví dụ Vận 8:

VƯỢNG KHÍ: 8

SINH KHÍ: 9-1

SUY KHÍ: 7

TỬ KHÍ: 6-5-4-3-2

 

Ví dụ Vận 9:

VƯỢNG KHÍ: 9

SINH KHÍ: 1-2

SUY KHÍ: 8

TỬ KHÍ: 7-6-5-4-3

 

Ví dụ 1: Nhà tọa TÝ hướng NGỌ, đã xây dựng và chuyển đến sinh sống trong Vận 8.

 

Khi thiết lập trạch vận, quan sát Hướng tinh sẽ cho thấy số 8 nằm về phía NAM, do đó, phía NAM sẽ được xem là có ĐẮC VƯỢNG KHÍ (vì hướng tinh cùng số với Vận hiện tại, tức là Vận 8). Phía ĐÔNG BẮC có hướng tinh số 9, phía TÂY có hướng tinh số 1, tức là 2 số tiếp theo sau số 8 (vì sau 8 là 9, sau 9 lại trở về 1), nên đây là 2 khu vực có SINH KHÍ. Phía BẮC có hướng tinh số 7, trước số 8 (đương vận) 1 số, do đó, khu vực này được xem là có SUY KHÍ. Các phía còn lại có các hướng tinh là 6, 5, 4, 3, 2, tức là những số trước số 8, tối thiểu là 2 số, vì vậy đây là những khu vực có TỬ KHÍ. Điều này chỉ là xét về Hướng tinh. Tiếp theo, thực hiện tương tự với Sơn tinh để xác định các khu vực có Sinh – Vượng khí hay Suy – Tử khí.

 

Ví dụ 2: Nhà có hướng NGỌ và tọa độ TÝ, đã hoàn thành xây dựng và chuyển đến ở vào năm 2000 (trong Vận 7).

 

Đến năm 2007, khi coi Phong thủy cho ngôi nhà, vì nó mới xây dựng và chưa trải qua nhiều sửa chữa, chủ nhà không có nhiều chuyến đi xa trong thời gian vận 7, do đó, khi lập trạch vận, vẫn sử dụng Vận 7 để xây dựng Vận bàn. Tiếp theo, sử dụng Tọa và Hướng bàn sẽ cho thấy Hướng tinh 7 nằm ở phía BẮC, Hướng tinh 8 ở phía TÂY NAM, Hướng tinh 9 ở phía ĐÔNG, và Hướng tinh 1 ở phía ĐÔNG NAM. Do nhà này nhập trạch trong Vận 7, nên phía BẮC có Hướng tinh số 7, đó là một khu vực tốt (Đắc VƯỢNG KHÍ). Phía TÂY NAM có Hướng tinh số 8, trong Vận 7, đó là SINH KHÍ. Phía ĐÔNG NAM có Hướng tinh số 1, đang là TỬ KHÍ trong Vận 7, nhưng khi chuyển sang Vận 8, nó đã trở thành SINH KHÍ, biến khu vực này từ xấu thành tốt.

 

Sự biến đổi của Sơn, Hướng tinh từ Sinh-Vượng sang Suy-Tử, rồi từ Suy-Tử trở lại Sinh-Vượng, là một điều cần chú ý trong Huyền Không. Đây cũng là một yếu tố giúp dự đoán Phong thủy linh hoạt và chính xác hơn.

 

Sau khi phân biệt Cửu khí thành SINH-VƯỢNG-SUY-TỬ cho mỗi vận, tiếp theo là xem xét mức độ ảnh hưởng của chúng:

 

SINH KHÍ: Có tác dụng tốt và kéo dài, nhưng cần được kích thích để phát huy đầy đủ.

VƯỢNG KHÍ: Có tác dụng tích cực và hiệu quả nhanh chóng, đặc biệt trong thời kỳ đang đương vận, cần được khai thác sớm nhất có thể.

SUY KHÍ: Dù chỉ là khí suy, nhưng tác dụng của nó không quá xấu (ngoại trừ các khí 2, 5, 7), cần tránh nhưng không phải là tuyệt đối.

TỬ KHÍ: Là những khí xấu cần phải tránh, nếu không sẽ gặp vấn đề về sức khỏe, tài chính, và quan hệ.

Tiếp theo, cần phân biệt giữa Sơn tinh và Hướng tinh của những khí SINH-VƯỢNG-SUY-TỬ này. Nếu là Sơn tinh, ảnh hưởng sẽ đến nhân định (số lượng, phẩm chất, tài năng…). Nếu là Hướng tinh, ảnh hưởng sẽ đến sức khỏe và tài lộc của gia đình.

 

Theo “Thiên ngọc kinh Ngoại thiên” của Dương công Chẩm, có viết: “Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài lộc”. Chữ “Sơn” ở đây không chỉ là “núi”, mà còn là Sơn tinh của một trạch vận. Tương tự, chữ “Thủy” không chỉ mang ý nghĩa của “sông nước”, mà còn là Hướng tinh (do niềm tin rằng phải có núi phía sau và thủy phía trước). Sơn tinh chịu trách nhiệm về nhân định, trong khi Hướng tinh liên quan đến tài lộc.

 

Vì đã được gọi là “Sơn”, Sơn tinh cần có núi cao (như ngôi nhà hoặc cây cao…). Nếu có núi ở những vị trí có Sinh khí hoặc Vượng khí, gia đình sẽ đông đúc, và xuất hiện người có tài giỏi, danh tiếng. Ngược lại, nơi có Suy, Tử khí của Sơn tinh cần thấp, phẳng (trống). Nếu ở những vị trí này có núi cao, sẽ có vấn đề về nhân định, thiếu vắng con chồng, con dâu…

 

Đối với Hướng tinh, mặc dù cần có Thủy, nhưng chỉ cần nước ở những khu vực có Sinh khí hoặc Vượng khí của Hướng tinh như sông, hồ, ao, biển hoặc các vật thể như buồng tắm, nhà vệ sinh, đường xá, cửa ra vào… Nếu được như thế, tài lộc sẽ phồn thịnh, công việc ổn định. Ngược lại, nếu nơi có Suy, Tử khí của Hướng tinh mà vẫn có “Thủy”, gia đình sẽ gặp khó khăn về tài lộc, tiêu tốn nhiều tiền, và công việc sẽ trở nên khó khăn…

 

Ví dụ 3: Nhà này hướng 30 độ, với MÙI sơn SỬU hướng, đã bắt đầu ở trong vận 8.

 

Nếu lập Trạch vận, sẽ thấy các Hướng tinh 8 (Vượng khí), 9, 1 (Sinh khí) nằm ở các khu vực phía ĐÔNG BẮC, TÂY và TÂY BẮC. Do đó, những khu vực này (bên trong hay bên ngoài nhà) cần có yếu tố thủy, như sông hồ, ao biển, buồng tắm, cửa ra vào… Khu vực phía NAM có hướng tinh 7 (Suy khí), nên không nên có yếu tố thủy, vì nếu có, nhà dễ bị quấy phá hoặc mất trộm. Các khu vực còn lại đều là Tử khí của Hướng tinh, nên cũng không nên có thủy hoặc cửa ra vào.

 

Tiếp theo, xét tới những trường hợp của các Sơn tinh. Vì các Sơn tinh số 8 (Vượng khí), 9, 1 (Sinh khí) nằm tại các khu vực phía TÂY NAM, BẮC và NAM, nếu những khu vực này có núi hay nhà cao… thì nhà sẽ đông con, nhiều cháu, và con cái tài giỏi. Các khu vực còn lại thì chỉ toàn là Suy khí hay Tử khí của Sơn tinh, nếu có núi hay nhà cao sẽ gây hại đến nhân định của căn nhà này.

 

Sau khi đã hiểu và phân biệt được những yếu tố trên, mới có thể xét đến trường hợp cơ bản đầu tiên của Phong thủy Huyền Không, đó là Vượng sơn, Vượng hướng. Như đã biết, Phong thủy bắt đầu từ Hình tượng, rồi sau đó mới phát triển lên đến Lý khí và Vận số. Hình tượng phái, hay Loan đầu phái, thường chủ trương việc nhà cần có núi bao bọc, che chở ở phía sau (Huyền Vũ), còn phía trước thì cần phải trống thoáng, có sông, hồ phản chiếu ánh sáng để tích tụ Long khí (Chu Tước), và đồng thời có cửa ra vào để hấp thụ Long khí. Còn đối với Phong thủy Huyền Không, khi cất nhà, phải chọn hướng như thế nào cho Vượng khí của Hướng tinh tới phía trước, còn Vượng khí của Sơn tinh tới phía sau. Phối hợp giữa Hình tượng và Lý khí (phi tinh) sẽ khiến nhà này có Vượng khí của Hướng tinh tới phía trước, đắc Thủy của sông hồ, có lối vào nhà nên tài lộc đạt đến đỉnh điểm. Còn Vượng khí của Sơn tinh tới phía sau, gặp núi, chủ vượng nhân định, con cháu đông đúc, nhân tài xuất hiện, tạo nên cục “phúc lộc song toàn”. Vì vậy, Vượng Sơn, Vượng Hướng, hay còn gọi là ĐÁO SƠN, ĐÁO HƯỚNG, là cách cục cơ bản của Phong thủy và Huyền Không. Những nhà có cách cục như vậy được gọi là những nhà có “Châu bảo tuyến” (hướng nhà quý như châu báu). Điểm quan trọng ở đây là sự phối hợp hài hòa giữa hình thế bên ngoài (Loan đầu) và phi tinh. Ngược lại, nếu một căn nhà phía trước cũng có sông hồ, phía sau cũng có núi hay nhà cao. Nhưng do việc chọn hướng không phù hợp, hoặc xây dựng không đúng lúc, khi lập Trạch vận, Vượng khí của Sơn tinh lại tới hướng (phía trước), và Vượng khí của Hướng tinh lại tới tọa (phía sau), dù hình thế xung quanh nhà là tốt, nhưng do không phối hợp với phi tinh nên có thể gây tài chính, tổn thất, tan cửa nát nhà. Đây chính là cách cục “Thượng sơn, Hạ thủy”, sẽ được nói ở một phần khác.

 

Một điều cần chú ý trong cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng” (hay “Đáo Sơn, Đáo Hướng”) này là, mặc dù lý thuyết cho rằng những nhà có Vượng khí của Hướng tinh tới phía trước và Vượng khí của Sơn tinh tới phía sau là cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng”. Tuy nhiên, điều quan trọng là ngoại hình bên ngoài của căn nhà (Loan đầu) có phù hợp với Vượng khí của Sơn và Hướng tinh hay không? Nếu không phù hợp, thì đó không thực sự là cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng”, và nhà cũng sẽ không thể phát phúc, phát lộc. Nếu nhà có hình thế phía trước có sông hồ, phía sau có núi hay nhà cao, nhưng do chọn hướng không đúng, hoặc xây dựng không đúng lúc khi lập Trạch vận, Vượng khí của Hướng tinh lại tới phía trước, và Vượng khí của Sơn tinh lại tới phía sau, dù có hình thế xung quanh nhà đẹp, nhưng do không phối hợp với phi tinh nên có thể dẫn đến tổn thất, tan cửa nát nhà. Điều này còn được gọi là cách cục “Thượng sơn, Hạ thủy”, gây ra những hậu quả tai hại.

 

Thượng Sơn, Hạ Thủy

 

Trong bản kinh “Thanh nang Tự,” có câu: “Long thần trên đỉnh núi không được xuống dưới nước, Long thần dưới biển không được lên trên núi.” Đây là một nguyên tắc quan trọng của Huyền Không, hay như Thẩm trúc Nhưng nói đến đây là “then chốt của cát, hung, họa, phúc.”

 

Chúng ta đã biết “Sơn quản nhân định, Thủy quản tài lộc.” Tuy nhiên, “Sơn” ở đây không chỉ đơn thuần là “Núi,” mà còn đại diện cho những linh vực cao cấp của Sơn bàn (hay Sơn tinh). Ngược lại, “Thủy” không chỉ là “Nước,” mà còn đề cập đến những vùng không gian của Hướng bàn (hay Hướng tinh). Do đó, Sơn tinh tập trung vào nhân định, trong khi Hướng tinh quản lý tài lộc. Sơn tinh thì nên ở những nơi có đồi núi, đất đai cao hoặc nơi có những công trình, cây cỏ lớn. Những điều này tạo ra môi trường tích cực cho cuộc sống Sơn tinh, khiến cho gia đình thịnh vượng, người chủ nhân tài năng và có uy tín…

 

Ngược lại, nếu Sơn tinh có sự sống sót, nhưng không có sự cao cấp như đồi núi, nhưng lại có yếu tố Thủy như sông, hồ, ao, biển, hoặc là những khu vực thấp hạ, lõm… thì gia đình sẽ trải qua sự ly tán, cô lập, không may hoặc thậm chí là suy yếu. Do đó, nguyên tắc “Long thần trên đỉnh núi không được xuống dưới nước” được hình thành. Sơn tinh, nếu nó sinh sống và phát triển tốt, không nên ở những nơi thấp hạ, lõm hoặc nơi có nước (Thủy tinh), vì điều này có thể mang lại tai họa cho nhân định.

 

Tương tự, nếu Hướng tinh có môi trường tốt, nhưng lại thiếu yếu tố Thủy như sông, hồ, ao, biển, đường đi hoặc cửa ra vào…, mà lại có những đồi núi, nhà cao, cây cao thì gia đình có thể gặp khó khăn về tài lộc, kinh doanh thất bại, hoặc môi trường sống trở nên khó khăn. Đây là lý do “Long thần dưới biển không được lên trên đỉnh núi.” Hướng tinh, nếu nó sinh sống và phát triển tốt, không nên ở những nơi cao ráo hoặc có đồi núi (Thượng Sơn), vì điều này có thể mang lại tai họa về vấn đề tài chính. Đây chính là nguyên lý “Thượng Sơn, Hạ Thủy” trong Huyền Không học.

 

Ví dụ: nhà tọa Khôn sơn Cấn hướng 40 độ, xây và vào ở (nhập trạch) trong vận 8. Nếu lập trạch vận thì tinh bàn căn nhà sẽ như

Trước hết xét về Sơn tinh, chúng ta thấy khu vực ĐÔNG BẮC có Sơn tinh 8, tức là vượng khí của Sơn tinh tới hướng, vì vậy trên lý thuyết nó thuộc cuộc “Hạ thủy” (do vượng tinh của Sơn tới phía trước nhà). Tuy nhiên, nếu khu vực này không có sông, hồ, ao, biển, nhưng lại có núi đồi hoặc nhà cao, thì vượng khí của Sơn tinh nhà này đã đắc cách, tức là đóng tại địa điểm có cao sơn thực địa. Do đó, trong nhà, nhân đinh vẫn giữ đông đúc, không bị suy bại.

 

Sau đó, chúng ta xét đến Hướng tinh, và thấy khu vực phía TÂY NAM có Hướng tinh 8, tức là vượng khí của Hướng tinh tới phương tọa, nên trên lý thuyết nó nằm trong cuộc “Thượng sơn”. Tuy nhiên, nếu khu vực này không có núi, đồi hoặc nhà cao, mà lại có Thủy hoặc đường đi, cửa ra vào… thì vượng khí của Hướng tinh nhà này vẫn đắc cách, tức là đóng tại địa điểm có Thủy, giúp tiền của và tài lộc gia đình này vẫn phồn thịnh.

 

Do đó, điều quan trọng là phải kết hợp giữa phi tinh và địa hình bên ngoài để có thể đưa ra những đánh giá chính xác về mức độ tích cực hoặc tiêu cực của mỗi trường hợp. Không nên chỉ nhìn vào việc một căn nhà có vượng tinh của Hướng tới phía trước và vượng tinh của Sơn tới phía sau mà suy luận ngay rằng đó là một căn nhà tốt. Ngược lại, cũng không nên chỉ vì thấy một căn nhà có vượng tinh của Hướng tới phía sau và vượng tinh của Sơn tới phía trước mà quyết định đó là một căn nhà xấu. Điều này có thể dẫn đến những đánh giá sai lầm đáng tiếc.

 

Một điểm quan trọng khác cần lưu ý là, mặc dù Sơn tinh quản lý về nhân định và cần đóng tại những địa điểm cao sơn thực địa, nhưng chỉ có những sinh, vượng khí của Sơn tinh mới nên ở những nơi có đồi núi hoặc nhà cao. Ngược lại, những khí suy, tử của Sơn tinh nên đóng ở những nơi bằng phẳng hoặc có Thủy. Nếu, tình cờ, nhà có khí suy, tử của Sơn tinh đóng tại những nơi cao hoặc núi đồi, có thể gặp tai họa do những đối tượng này gây ra. Ví dụ, trong vận 8, nếu một nhà có Sơn tinh Thất xích (số 7) đóng tại khu vực có núi hoặc nhà cao, có thể gặp tai họa do Thất xích mang lại. Vì Thất xích là biểu tượng của kẻ tiểu nhân hay giặc cướp, nên nhà này thường xuyên bị tấn công bởi bọn trộm hoặc gặp vấn đề với kẻ tiểu nhân…

 

Tương tự, đối với Hướng tinh, mặc dù cai quản về tài lộc và cần đóng tại những chỗ thấp trũng hoặc có Thủy, nhưng chỉ có những sinh, vượng khí của Hướng tinh mới cần đáp ứng điều kiện này. Ngược lại, những khí suy, tử của Hướng tinh nếu gặp Thủy có thể gây tổn thất về tiền bạc, bệnh tật, tai họa, phụ thuộc vào tính chất cụ thể của Hướng tinh đó.

 

Ví dụ, trong vận 8, nếu một nhà có Hướng tinh Nhị hắc gặp Thủy, có thể gặp hao tiền, vấn đề với sức khỏe, và nhiều vấn đề khác như tỳ vị, sảy thai, hỏa hoạn, tình trạng áp đặt, va chạm giao thông. Trong nhà, có thể xuất hiện vấn đề với phụ nữ có thai hoặc người lớn tuổi…

 

Do đó, đối với những Hướng tinh là khí suy, tử, nên chọn những nơi cao ráo hoặc yên tĩnh để đóng. Chỉ có cách này mới có thể tránh được tai họa. Nếu Hướng tinh có khí suy, tử đóng ở những nơi có núi hay nhà cao, và khí suy, tử của Sơn tinh đóng ở những nơi có Thủy hoặc cửa nẻo ra vào, có thể tạo ra cảnh “HUNG TINH ĐẮC CÁCH,” tai họa sẽ nặng nề hơn cả so với cuộc “thượng Sơn, Hạ Thủy”.

 

Tóm lại, để có một nhà phát triển tích cực, sinh, vượng khí của Sơn tinh nên đóng ở những nơi cao ráo, và sinh, vượng khí của Hướng tinh cần phải gặp Thủy. Ngược lại, nếu ngôi nhà đối diện với những điều này, có thể trải qua tình trạng khó khăn, nghèo đói. Do đó, người học Huyền không cần phải dựa vào những tiêu chuẩn này để chọn lựa hướng lập nhà phù hợp, tức là phải tìm kiếm những ngôi nhà đắc “vượng Sơn, vượng Hướng” (hay “Đáo Sơn, Đáo Hướng”), và cần tránh xa những nhà có cuộc sống theo cách “Thượng Sơn, Hạ Thủy”. Đồng thời, cũng cần lưu ý rằng, không nên để cho những khí suy, tử của Sơn, Hướng tinh có thể trở thành “Hung tinh đắc cách,” tạo ra tai họa cho những người ở trong ngôi nhà.

 

Thế Quái

 

Phương pháp Thế Quái thường được áp dụng khi thực hiện tinh bàn (hoặc trạch vận) cho một căn nhà. Thông thường, khi xem xét một căn nhà, chúng ta thường gặp trường hợp những ngôi nhà không đặt theo hướng chính (hay còn gọi là hướng thuần), có nghĩa là hướng của nhà không nằm trên tâm điểm của 1 trong 24 hướng cơ bản, mà thay vào đó, lệch sang bên phải hoặc bên trái. Những trường hợp như vậy thường được biết đến với tên gọi là kiêm hướng.

 

Đối với Huyền không phái, nếu một căn nhà (hoặc khu mộ) bị kiêm hướng, nhưng kiêm dưới 3 độ, thì vẫn có thể sử dụng phương pháp tinh bàn như thường lệ. Điều này có nghĩa là chúng ta vẫn lấy thông tin về vận tinh tới tọa và hướng, sau đó tùy thuộc vào Tam nguyên long của nó là dương hay âm để quyết định xoay chuyển thuận hoặc nghịch. Tuy nhiên, nếu kiêm hướng nhiều hơn 3 độ so với tâm hướng chính (dù là sang bên phải hay bên trái), thì chúng ta cần phải sử dụng Thế Quái, tức là sử dụng số thay thế.

 

Thế Quái, trong bối cảnh này, trở thành một phương pháp giải quyết vấn đề cho những trường hợp kiêm hướng lớn hơn 3 độ. Tưởng đại Hồng, một danh sư Phong thủy Huyền không từ thời nhà Minh, đã chia sẻ rằng “Để áp dụng phép kiêm hướng, cần phải sử dụng bí quyết KHÔN-NHÂM-ẤT.” Bí quyết này được mô tả trong “Thanh nang áo Ngữ” của Dương quân Tùng, với 4 câu khẩu quyết cụ thể:

 

KHÔN-NHÂM-ẤT, Cự môn tòng đầu xuất,

CẤN-BÍNH-TÂN, vị vị thị Phá Quân,

TỐN-THÌN-HƠI, tận thị Vũ Khúc vị,

GIÁP-QUÝ-THÂN, Tham Lang nhất lộ hành.

 

Điều này có nghĩa là:

 

  • Với 3 hướng KHÔN-NHÂM-ẤT (xin vui lòng kiểm tra phần 24 sơn hướng và TAM NGUYÊN LONG), sử dụng sao Cự môn (hay số 2) làm điểm xuất phát (nghĩa là nhập trung cung rồi xoay chuyển thuận hoặc nghịch).

 

  • Đối với 3 hướng CẤN-BÍNH-TÂN, bất kỳ vị trí nào cũng sử dụng sao Phá Quân (số 7) nhập trung cung như một giải pháp thay thế.

 

  • Trong trường hợp của 3 hướng TỐN-THÌN-HỢI, sử dụng sao Vũ Khúc (số 6) nhập trung cung thay thế.

 

  • Đối với 3 hướng GIÁP-QUÝ-THÂN, sử dụng sao Tham Lang (số 1) nhập trung cung thay thế.

 

Hãy xem xét ví dụ với một căn nhà hướng 185 độ, nghĩa là tọa TÝ hướng NGỌ kiêm QUÝ-ĐINH 5 độ, nhà xây và vào ở trong vận 8. Khi xem xét an vận bàn, số 3 đến từ hướng, và số 4 đến từ tọa. Do kiêm hướng nhiều hơn 3 độ, nên không thể sử dụng số 4 nhập trung cung. Tuy nhiên, vì số 4 gồm 3 sơn là THÌN-TỐN-TỴ, áp dụng lên phương tọa của căn nhà, ta thấy sơn TỐN của số 4 trùng với tọa (tức là sơn TÝ) của căn nhà này. Dựa trên khẩu quyết của Dương quân Tùng, khi sơn TỐN kiêm độ, cần phải sử dụng sao Vũ Khúc, tức là số 6 nhập trung cung thay thế. Tiếp theo, do TỐN là đại dương trong TAM NGUYÊN LONG, nên đưa số 6 vào trung cung và xoay theo chiều thuận là 7 tới TÂY BẮC, 8 tới TÂY, 9 tới ĐÔNG BẮC… để xác định sơn bàn cho căn nhà này.

Tuy nhiên, bởi trên lá kinh có tới 24 sơn, trong khi khẩu quyết của Dương quân Tùng chỉ đề cập đến 12 sơn trong tình huống kiêm hướng, tức là ông chỉ giới thiệu một nửa, còn nửa kia không được nhắc đến mà chỉ được truyền miệng cho thế hệ sau. Vì lẽ đó, những người nhận được sự truyền đạt thường tự xem mình như là “kho tàng gia bảo,” là “bí mật của mọi bí mật” trong lĩnh vực Phong thủy Huyền Không. Cho đến cuối thời nhà Minh, khi Khương Diêu chi ra hai ngàn lượng bạc để đền cho việc mai táng cha của Tưởng đại Hồng, ông mới được gia đình Tưởng truyền đầy đủ khẩu quyết. Tuy nhiên, Khương Diêu cũng giữ kín bí mật này, khiến cho không ai có thể biết hoặc hiểu sâu sắc về những khẩu quyết của Dương quân Tùng, trừ khi họ nhận được truyền đạt trực tiếp. Đến cuối thời nhà Thanh, danh sư Chương trọng Sơn, được đích truyền của Huyền không phái, mới viết sách để truyền lại cho thế hệ tiếp theo, trong đó có hướng dẫn về cách sử dụng Thế quái. Thành tựu này đã đến tai Thẩm trúc Nhưng, người đang cố gắng tìm hiểu và nghiên cứu Huyền Không. Ông đã chi ra một ngàn lạng bạc để mượn sách của Chương trọng Sơn trong một đêm để sao chép hết nội dung. Nhờ vậy mà ông mới có cơ hội hiểu rõ về bí quyết của Thế quái và tạo ra bài “Thế quái ca quyết” sau đây:

“TÝ, QUÝ tịnh GIÁP, THÂN, Tham Lang nhất lộ hành,

NHÂM, MÃO, ẤT, MÙI, KHÔN, ngũ vị vi Cự Môn,

CÀN, HỢI, THÌN, TỐN, TỴ, liên TUẤT Vũ Khúc danh,

DẬU, TÂN, SỬU, CẤN, BÍNH, thiên tinh thuyết Phá Quân,

DẦN, NGỌ, CANH, ĐINH thượng, Hữu Bật tứ tinh lâm,

Bản sơn tinh tác chủ, phiên hướng trục hào hành,

Liêm Trinh quy ngũ vị, chư tinh thuận, nghịch luân,

Hung, cát tùy thời chuyển, Tham-Phụ bất đồng luận,

Tiện hữu tiên hiền quyết, không vị kỵ lưu thần,

Phiên hướng phi lâm BÍNH, thủy khẩu bất nghi ĐINH,

Vận thế tinh bất cát, họa khởi chí diệt môn,

Vận vượng tinh cách hợp, bách phúc hựu thiên trinh,

Suy, vượng đa bằng thủy, quyền ngự giá tại tinh,

Thủy kiêm tinh cộng đoán, diệu dụng cánh thông linh.”

 

Tạm dịch:

 

TÝ, QUÝ cùng GIÁP, THÂN, đi 1 đường với Tham Lang (số 1),

NHÂM, MÃO, ẤT, MÙI, KHÔN, 5 vị trí dùng sao Cự Môn (số 2),

CÀN, HỢI, THÌN, TỐN, TỴ, TUẤT liên tiếp dùng sao Vũ Khúc (số 6),

DẬU, TÂN, SỬU, CẤN, BÍNH là những vị trí của sao Phá Quân (số 7),

DẦN, NGỌ, CANH, ĐINH sẽ được sao Hữu Bật bay tới (số 9),

Sao của bản sơn làm chủ, sao của hướng vận hành,

Liêm Trinh (số 5) mà tới 5 vị trí này thì phải tính sự thuận, nghịch của các sao.

Hung, cát chuyển vận tùy theo thời, Tham-phụ sẽ di chuyển trái ngược nhau,

Theo khẩu quyết của tiên hiền, phải xa lánh tuyến vị Không vong,

Nếu hướng tinh không ở vị trí BÍNH, thì thủy khẩu không thể ở vị trí ĐINH.

Gặp lúc thế tinh xấu có thể làm tan cửa nát nhà,

Lúc thế tinh là vượng tinh thì trăm điều lành sẽ tới,

Suy hay vượng là căn cứ vào thủy, quyền hành đều do sao quyết định,

Hợp thủy với sao mà đoán là cách hay nhất để đoán biết mọi việc.

 

Dựa vào bài “Thế quái ca quyết” của Thẩm Trúc Nhưng, chúng ta có thể tổng kết như sau:

 

– TÝ, QUÝ, GIÁP, THÂN sử dụng số 1 nhập trung.

– KHÔN, NHÂM, ẤT, MÃO, MÙI sử dụng số 2 nhập trung.

– TUẤT, CÀN, HỢI, THÌN, TỐN, TỴ sử dụng số 6 nhập trung.

– CẤN, BÍNH, TÂN, DẬU, SỬU sử dụng số 7 nhập trung.

– DẦN, NGỌ, CANH, ĐINH sử dụng số 9 nhập trung.

 

Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ, ta thấy trong 24 sơn chỉ có 13 sơn sử dụng Thế quái, còn lại 11 sơn không sử dụng, chi tiết như sau:

 

– Cung KHẢM “NHÂM-TÝ-QUÝ” thuộc Nhất Bạch (Tham Lang), trừ NHÂM sử dụng Thế quái thành Nhị Hắc (Cự Môn), TÝ-QUÝ vẫn sử dụng Nhất Bạch, tức là không sử dụng Thế quái.

 

– Cung KHÔN “MÙI-KHÔN-THÂN” thuộc Nhị Hắc (Cự Môn), trừ THÂN sử dụng Thế quái thành Nhất Bạch (Tham Lang), MÙI-KHÔN vẫn sử dụng Nhị Hắc, tức là không sử dụng Thế quái.

 

– Cung CHẤN “GIÁP-MÃO-ẤT” thuộc Tam Bích (Lộc Tồn), nhưng GIÁP sử dụng Nhất Bạch làm Thế Quái, còn MÃO-ẤT thì sử dụng Nhị Hắc làm Thế quái.

 

– Cung TỐN “THÌN-TỐN-TỴ” thuộc Tứ Lục (Văn Khúc), nhưng cả ba đều sử dụng Lục Bạch (Vũ Khúc) làm Thế quái.

 

– Cung CÀN “TUẤT-CÀN-HỢI” thuộc Lục Bạch (Vũ Khúc), nhưng cả ba đều sử dụng Lục Bạch, tức là không sử dụng Thế quái.

 

– Cung ĐOÀI “CANH-DẬU-TÂN” thuộc Thất Xích (Phá Quân), trừ CANH sử dụng Cửu Tử (Hữu Bật) làm Thế quái, còn DẬU-TÂN vẫn sử dụng Thất Xích (Phá Quân), nên không sử dụng Thế quái.

 

– Cung CẤN “SỬU-CẤN-DẦN” thuộc Bát Bạch (Tả Phù), nhưng SỬU-CẤN sử dụng Thất Xích (Phá Quân) làm Thế quái, còn DẦN sử dụng Cửu Tử (Hữu Bật) làm Thế quái.

 

– Cung LY “BÍNH-NGỌ-ĐINH” thuộc Cửu Tử (Hữu Bật), trừ BÍNH sử dụng Thất Xích (Phá Quân) làm Thế quái, còn NGỌ-ĐINH vẫn sử dụng Cửu Tử (Hữu Bật), tức là không sử dụng Thế quái.

 

Do bài “Thế quái ca quyết” của Thẩm Trúc Nhưng, chúng ta có thể xác định được sơn nào (trong 24 sơn) có thể sử dụng Thế quái. Do đó, áp dụng ví dụ ở trên, nhà hướng 185 độ (tức tọa TÝ hướng NGỌ kiêm QUÝ-ĐINH 5 độ), nhập trạch trong Vận 8 nên có Vận tinh số 3 hướng tới phía trước (hướng). Nếu chỉ dựa vào 4 câu khẩu quyết của Dương quân Tùng trong “Thanh nang Áo Ngữ”, ta không biết Vận tinh này có thể sử dụng Thế quái hay không. Tuy nhiên, với bài “Thế quái ca quyết”, ta thấy số 3 bao gồm 3 sơn là GIÁP-MÃO-ẤT. Nếu áp dụng lên 3 sơn BÍNH-NGỌ-ĐINH ở đầu hướng của căn nhà, ta thấy sơn MÃO của số 3 trùng với Hướng (tức sơn NGỌ) của căn nhà. Theo ca quyết, sơn MÃO sử dụng Nhị Hắc làm Thế quái, nên ta lấy số 2 (tức sao Nhị Hắc) nhập trung cung. Vì MÃO thuộc âm (trong Tam nguyên Long), nên ta lấy số 2 nhập trung cung rồi xoay theo chiều “Nghịch”, tức 1 tới TÂY BẮC, 9 tới TÂY, 8 tới ĐÔNG BẮC… Điều này giải thích câu “sao của bản sơn làm chủ, sao của hướng vận hành” trong ca quyết, với “làm chủ” chỉ quyết định sự di chuyển Thuận hay Nghị, còn “sao của hướng” là Thế quái vận hành.

Một tình huống khác là khi áp dụng Vận bàn, Vận tinh số 5 sẽ đối diện với tọa hoặc hướng của căn nhà. Bởi vì số 5 không liên quan đến phương hướng và không có Thế quái, nên khi gặp trường hợp như vậy, chỉ cần xác định phương tọa hoặc hướng của căn nhà thuộc sơn nào, và là dương hay âm trong Tam nguyên Long. Sau đó, vẫn lấy số 5 nhập trung cung và xoay chuyển THUẬN hoặc NGHỊCH tùy thuộc vào sơn tọa hoặc hướng của căn nhà.

 

Ví dụ, nếu nhà hướng 185 độ, tức là tọa TÝ hướng NGỌ kiêm ĐINH-QUÝ 5 độ, xây dựng và chuyển vào trong vận 1. Nếu áp dụng Vận bàn, ta lấy số 1 nhập trung cung và xoay theo chiều thuận, nghĩa là 2 đến TÂY BẮC, 3 đến TÂY, 4 đến ĐÔNG BẮC, 5 đến NAM… Vì căn nhà này kiêm hướng và số 5 không liên quan đến Thế quái, cũng không có phương hướng, nên vẫn sử dụng hướng chính của căn nhà, tức là hướng NGỌ, thuộc âm trong Tam nguyên Long. Do đó, ta vẫn lấy số 5 nhập trung cung và xoay NGHỊCH để áp dụng Vận bàn cho căn nhà này.

Một điều quan trọng khác là có những căn nhà kiêm hướng nhiều, nhưng cả vận tinh tới tọa và hướng đều không sử dụng Thế quái. Nhiều người trong lĩnh vực Phong thủy cho rằng đây là một cách cục không tốt, và dù nhà có nhận được đắc vượng tinh tới hướng, nhưng vẫn có thể gặp phải tai họa. Họ lý giải rằng khi nhà đã kiêm hướng, điều này đồng nghĩa với việc cần phải có Thế quái để hỗ trợ, và nếu thiếu Thế quái, dù có đắc vượng tinh tới hướng, cũng chỉ là sự miễn cưỡng hoặc vượng tinh không đủ mạnh mẽ để hỗ trợ cho căn nhà đó. Tuy nhiên, qua thực tế kiểm chứng, lại thấy những căn nhà này vẫn phát tài phát lộc, công việc và tài lộc của người sống trong nhà vẫn phồn thịnh. Điều này có thể dẫn đến kết luận rằng, mặc dù nhà kiêm hướng nhưng không có Thế quái, nhưng nếu đắc vượng tinh tới hướng, vẫn mang lại sự tốt đẹp như những căn nhà khác.

 

Lấy ví dụ như nhà hướng 320 độ, tức là tọa TỐN hướng CÀN kiêm TỴ-HỢI 5 độ, xây dựng và chuyển vào trong vận 8. Nếu áp dụng Vận bàn, ta lấy số 8 nhập trung cung và 9 đến TÂY BẮC là hướng nhà. Nếu muốn an Hướng bàn, ta xem hướng nhà trùng với sơn nào của số 9. Vì nhà hướng CÀN, trùng với sơn NGỌ của số 9. Theo bài “Thế quái ca quyết”, NGỌ vẫn sử dụng Cửu Tử (tức số 9), nghĩa là không dùng Thế quái. Vì NGỌ thuộc âm trong Tam nguyên Long, nên lấy số 9 nhập trung cung và xoay NGHỊCH, 8 đến TÂY BẮC là hướng. Vì đang trong vận 8 mà được hướng tinh 8 tới Hướng, nên nhà này thuộc vào dạng đắc vượng tinh tới hướng. Đây là một cách tiếp cận tích cực, mặc dù là căn nhà kiêm hướng nhiều mà vẫn không có Thế quái để sử dụng.

 

Thu Sơn, Xuất Sát

 

Như chúng ta đã biết, khí sinh, vượng của Sơn tinh thường tập trung tại những địa điểm cao ráo, trong khi khí sinh, vượng của Hướng tinh thì thích hợp đóng tại những khu vực thấp, sâu hay gặp nước. Tuy nhiên, khi xem xét trạch vận của một căn nhà, ta thấy ở bất kỳ khu vực nào cũng có sự hiện diện của 3 sao: Vận-Sơn-Hướng tinh. Trong 3 sao này, Vận tinh thường có tác động yếu, không đáng kể, chỉ được sử dụng để kết hợp với Sơn tinh (hoặc Hướng tinh) để tăng thêm tính tích cực hoặc tiêu cực một cách nhỏ nhất. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Sơn tinh và Hướng tinh, cùng với hoàn cảnh xung quanh là điều quan trọng đối với mọi khía cạnh như cát, hung, họa, phúc của căn nhà, và cần phải được chú ý đặc biệt.

 

Khi xem xét mối tương quan giữa Sơn tinh và Hướng tinh ở từng khu vực, chúng ta có 4 trường hợp sau:

 

1) Sơn tinh là khí sinh, vượng; Hướng tinh là khí suy, tử.

2) Hướng tinh là khí sinh, vượng; Sơn tinh là khí suy, tử.

3) Sơn tinh và Hướng tinh đều là khí sinh, vượng.

4) Sơn tinh và Hướng tinh đều là khí suy, tử.

 

Khi kết hợp 4 trường hợp trên với điều kiện địa hình xung quanh, chúng ta có kết quả như sau:

 

  1. Nếu một khu vực có Sơn tinh là khí sinh, vượng, còn Hướng tinh là khí suy, tử, và khu vực đó có núi cao, nhà cao, cây cỏ cao… nghĩa là khí sinh, vượng của Sơn tinh đã thật sự thăng tiến, bởi đã tập trung ở vị trí cao sơn, địa hình thực tế. Trong tình huống này, khí sinh, vượng của Sơn tinh đã chiếm ưu thế tại khu vực này, trong khi Hướng tinh ở đây vừa là khí suy, tử, vừa bị “thất cách” (vì không gặp nước mà chỉ gặp núi), do đó mất hết hiệu lực. Điều này dẫn đến Sơn tinh hoàn toàn chi phối khu vực, và vì Sơn tinh “đắc cách” tại những vị trí này, nó đã loại bỏ hết tác động tiêu cực của Hướng tinh ở đây, thường được gọi là “Sơn chế ngự Thủy”. Đây chính là trường hợp Sơn tinh “hóa sát” (hay “xuất sát”, tức là làm mất hết sát khí) của Hướng tinh, thường gọi tắt là “XUẤT SÁT”.

Ví dụ: nhà Sửu sơn Mùi hướng 210 độ Tây Nam, nhập trạch trong vận 8

Nếu thực hiện trạch vận, ta sẽ thấy khu vực phía sau nhà ở hướng Đông Bắc có Sơn tinh 8 (vượng khí) và Hướng tinh 2 (tử khí). Nếu phía sau nhà này có núi (ở xa) hoặc nhà cao ở gần (ít nhất là bằng cao nhà này, và càng cao lớn hơn càng tốt), vượng khí của Sơn tinh đã “đắc cách”, có thể giảm bớt tác động tiêu cực của Hướng tinh 2. Đồng thời, Hướng tinh 2 đã mất hết hiệu lực, không thể gây ra bệnh tật (số 2 là sao Nhị Hắc, đại diện cho bệnh tật và đau ốm), cũng không thể làm suy giảm tài lộc nữa, dù khu vực đó có “động” (như có cửa hoặc là nơi thường xuyên sinh hoạt) hay không. Do đó, căn nhà này không chỉ tạo ra môi trường sống tích cực mà còn thúc đẩy tài lộc (vì không bị ánh hưởng tiêu cực từ Hướng tinh).

 

Tương tự, khu vực phía TÂY của nhà này có Sơn tinh 9 (sinh khí) và Hướng tinh 3 (tử khí). Còn khu vực phía TÂY BẮC có Sơn tinh 1 (sinh khí) và Hướng tinh 4 (tử khí). Nếu cả hai khu vực này đều có núi hoặc nhà cao, đó cũng là trường hợp “Xuất sát”, không chỉ làm cho đình vượng mà còn đóng góp vào sự phát triển của tài lộc.

 

Tuy nhiên, nếu khu vực có Sơn tinh là sinh, vượng khí, nhưng Hướng tinh là suy, tử khí, và khu vực đó không có núi hoặc nhà cao, mà lại có yếu tố thủy như sông, hồ, ao, biển…, thì đây là trường hợp Sơn tinh “Hạ thủy”, và Hướng tinh lại “hung tinh đắc cách”, dẫn đến tình trạng tổn đinh và phá tài.

 

  1. Nếu khu vực có Hướng tinh là sinh, vượng khí, còn Sơn tinh là suy, tử khí, mà khu vực đó lại có yếu tố Thủy như sông, hồ, ao, biển hay có cửa nẻo ra vào nhà, thì Hướng tinh đã “đắc cách”, nắm quyền điều động và chi phối Sơn tinh tại đó. Sơn tinh, ngược lại, vừa là khí suy, tử, vừa bị “thất cách” (gặp thủy), nên đã mất hết hiệu lực và bị Hướng tinh chế ngự. Đây là trường hợp “Thủy thu sát của Sơn”, hay thường gọi tắt là cách cục “THU SƠN”.

 

Ví dụ: Lấy nhà hướng MÙI 210 độ, nhập trạch trong vận 8.

 

Nhìn vào trạch vận, ta thấy ở khu vực phía TÂY NAM (tức phía trước nhà) có Hướng tinh 8 (vượng khí) và Sơn tinh 5 (tử khí). Nếu khu vực phía trước của căn nhà này có sông, hồ, ao, biển, hay có đường rộng, cửa ra vào… thì vượng khí của Hướng tinh đã “đắc cách”, tăng cường tài lộc và hóa giải sát (tức “Thu sơn”) của Sơn tinh Ngũ Hoàng, khiến sao này mất tác dụng và không tạo ra tác động tiêu cực như trước (sao Ngũ Hoàng chủ sự chết chóc hoặc nhân đinh ly tán). Tương tự, ở khu vực phía BẮC của nhà này có Hướng tinh 9 (sinh khí), Sơn tinh 6 (tử khí). Còn khu vực phía NAM có Hướng tinh 1 (sinh khí), Sơn tinh 7 (suy khí). Nếu ở cả hai phía này cũng có Thủy hoặc có đường đi, cửa ra vào… thì cũng tạo ra hiện tượng “Thu sơn”, vừa làm phồn thịnh tài lộc, vừa giúp đình vượng.

 

Tuy nhiên, nếu khu vực có Hướng tinh là sinh, vượng khí, còn Sơn tinh là suy, tử khí, nhưng nơi đó không có yếu tố Thủy mà lại có núi cao hoặc nhà cao… thì đó sẽ là trường hợp Hướng tinh “Thượng sơn”. Ngược lại, Sơn tinh suy, tử mà còn gặp núi cao, là trường hợp Hướng tinh “hung tinh đắc cách”, gây ra phá tài và mang lại nhiều tai họa.

 

  1. Nếu trong một khu vực mà Sơn tinh hay Hướng tinh đều là sinh, vượng khí, thì phương án lý tưởng nhất là khu vực đó cần sự hiện diện đồng thời của cả sông hồ và núi hay nhà cao, với điều kiện là sông hồ nằm gần kề, trong khi núi hay nhà cao ở xa xa. Nếu thỏa mãn điều kiện này, Sơn tinh và Hướng tinh sẽ đều “đắc cách”, tạo nên môi trường lý tưởng cho sự thịnh vượng cả về tài lộc và định mệnh. Trong trường hợp khu vực chỉ có núi mà thiếu sự hiện diện của sông, hồ, thì núi cần phải có hình dáng đẹp và nằm ở xa mới có thể mang lại sự thịnh vượng cho định mệnh của ngôi nhà. Ngược lại, nếu chỉ có núi với hình dáng bình thường và gần nhà, hoặc chỉ có nhà cao mà không có yếu tố nước, thì chỉ có thể tạo nên sự thịnh vượng về tài lộc mà không ảnh hưởng tích cực đến định mệnh. Trong trường hợp không có nước mà chỉ có đường đi, sân rộng hay cửa nẻo ra vào, thì chỉ tạo ra môi trường thịnh vượng cho tài lộc mà không đảm bảo sự thịnh vượng cho định mệnh.

 

  1. Trong trường hợp khu vực mà cả Sơn tinh và Hướng tinh đều mang khí suy, tử, nếu nơi đó có núi hay nhà cao, căn nhà sẽ đối mặt với những tai họa do Sơn tinh gây ra. Trong tình huống này, Hướng tinh trở nên vô hại. Nếu khu vực đó có sông, hồ hoặc cửa ra vào, căn nhà sẽ gặp tai họa, bệnh tật do tác động của Hướng tinh, cộng thêm vấn đề mất mát tài lộc. Trong tình huống này, Sơn tinh trở nên vô hại. Nếu khu vực này là phẳng, yên bình, cả Sơn tinh và Hướng tinh đều bị hóa giải, trở thành vô hiệu.

 

Ví dụ: Cùng xét nhà hướng MÙI 210 độ, nhập trạch trong vận 8.

 

Nếu nhìn vào trạch vận, phía TÂY, TÂY BẮC và ĐÔNG BẮC có Sơn tinh mang sinh, vượng khí và Hướng tinh mang suy, tử khí. Do đó, cần có núi hay nhà cao ở những phía này để tạo ra tình huống “Xuất sát”. Ngược lại, ở phía BẮC, NAM và TÂY NAM có Hướng tinh mang sinh, vượng khí, nên cần có sông, hồ, ao, biển, đường đi, cửa ra vào để tạo tình huống “Thu sơn”. Phía ĐÔNG với Sơn tinh 4 và Hướng tinh 7 đều mang khí suy, tử, nếu có núi cao ở đó, Sơn tinh 4 sẽ chi phối, gây ra các vấn đề như đàn bà gây hại, con gái trong nhà hư đốn. Ngược lại, nếu có sông, hồ mà không có núi, Hướng tinh 7 sẽ chi phối, gây ra các vấn đề như bệnh về miệng, cổ, phổi, đại trường, lừa dối và mất mát tài lộc. Nếu khu vực này là phẳng, yên bình, cả Sơn tinh và Hướng tinh đều trở nên vô hại.

 

Tóm lại, “Thu sơn, xuất sát” là một phương pháp nhằm tối đa hóa sự hòa hợp giữa khí sinh và vượng của cả Hướng tinh và Sơn tinh. Nó không chỉ giúp bổ sung và hỗ trợ cho cách cục “Đáo Sơn, Đáo Hướng” mà còn loại bỏ cách cục “Thượng Sơn, Hạ Thủy”, nâng cao tối đa tình hình tích cực của một ngôi nhà, bao gồm cả “PHÚC” (nhân đinh đông đúc, con cháu hiền tài), “LỘC” (giàu sang, phú quý) và “THỌ” (sức khỏe tràn trề, sống lâu trăm tuổi), tạo nên một cuộc sống đầy hạnh phúc và thịnh vượng.

 

Phản Ngâm, Phục Ngâm

 

Nguyên lý “Phản Ngâm, Phục Ngâm” cũng là một yếu tố quan trọng mà những người làm Phong thủy Huyền Không cần chú ý khi xây dựng và thiết kế không gian sống. Khi xác định hướng và vị trí của một căn nhà để tối ưu hóa trạch vận, không chỉ cần tránh “Thượng Sơn, Hạ Thủy” mà còn cần xem xét kỹ về “Phản Ngâm” và “Phục Ngâm” của Sơn tinh và Hướng tinh.

 

“Phản Ngâm” và “Phục Ngâm” xuất hiện khi Vận tinh số 5 đến Hướng hoặc tọa của căn nhà. Nếu số 5 này nhập trung cung và xoay nghịch (để lập Sơn bàn hoặc Hướng bàn), các số trong các cung từ 1 đến 8 sẽ tạo ra xung khắc với số nguyên thủy của địa bàn (hoặc cộng với số nguyên thủy để đạt tổng là 10). Tình huống này được gọi là “Phản Ngâm” – tức là tạo ra sự xung đột hoặc xung khắc. Ngược lại, nếu số 5 nhập trung cung và xoay thuận, các số từ 1 đến 8 sẽ giống như số nguyên thủy của địa bàn. Tình huống này được gọi là “Phục Ngâm” – tức là tạo ra sự hòa hợp và tăng cường.

 

Tóm lại, “Phản Ngâm, Phục Ngâm” là một khía cạnh quan trọng trong việc định hình không gian sống, giúp tối đa hóa lợi ích và tính hài hòa của môi trường sống.

 

Ví dụ 1: Nhà tọa Mùi hướng SỬU, nhập trạch trong vận 8.

 

Khi xem xét Vận bàn, chúng ta phát hiện Vận tinh số 5 đến tọa ở hướng Tây Nam. Nếu muốn lập Sơn bàn, chúng ta sẽ chọn số 5 nhập trung cung. Do nhà này hướng SỬU, tọa thuộc sơn MÙI, và MÙI thuộc âm trong Tam nguyên Long, nên khi lấy 5 nhập trung cung và xoay nghịch, chúng ta sẽ có các số sau: 4 đến TÂY BẮC, 3 đến TÂY, 2 đến ĐÔNG BẮC, 1 đến NAM, 9 đến BẮC, 8 đến TÂY NAM, 7 đến ĐÔNG, và 6 đến ĐÔNG NAM. So sánh phương vị của những Sơn tinh này với phương vị nguyên thủy của chúng trong Hâu thiên Bát quái (hoặc Lạc thư), chúng ta có thể thấy:

 

Số 4: Vị trí nguyên thủy ở phía ĐÔNG NAM, nhưng trong trạch vận lại đổi lên đóng tại khu vực phía TÂY BẮC, đối nghịch với vị trí nguyên thủy.

Số 3: Vị trí nguyên thủy là ở phía ĐÔNG, nhưng lại tới đóng ở phía TÂY.

Số 2: Vị trí nguyên thủy là ở TÂY NAM, nhưng lại tới đóng ở ĐÔNG BẮC.

Số 1: Vị trí nguyên thủy là ở BẮC, nhưng lại tới đóng ở phía NAM.

Số 9: Vị trí nguyên thủy là ở NAM, nhưng lại tới đóng ở phía BẮC.

Số 8: Vị trí nguyên thủy là ở ĐÔNG BẮC, nhưng lại tới đóng tại TÂY NAM.

Số 7: Vị trí nguyên thủy là ở TÂY, nhưng lại tới đóng tại phía ĐÔNG.

Số 6: Vị trí nguyên thủy là ở TÂY BẮC, nhưng lại tới đóng ở phía ĐÔNG NAM.

Như vậy, tất cả các số (hoặc sao) của Sơn tinh đều đóng tại những khu vực đối nghịch với địa bàn nguyên thủy của chúng, tạo ra tình trạng “PHẢN NGÂM”.

 

Ví dụ 2: Nhà tọa Cấn hướng KHÔN, nhập trạch trong Vận 8.

 

Nếu xem xét Vận bàn, ta thấy Vận tinh số 5 đến hướng ở Tây Nam. Vì hướng KHÔN thuộc dương trong Tam nguyên Long, nếu muốn lập Hướng bàn, ta cần lấy số 5 nhập trung cung và xoay thuận. Kết quả là số 6 tới TÂY BẮC, số 7 tới TÂY, số 8 tới ĐÔNG BẮC, số 9 tới NAM, số 1 tới BẮC, số 2 tới TÂY NAM, số 3 tới ĐÔNG, và số 4 tới ĐÔNG NAM. So sánh phương vị của những Hướng tinh này với phương vị nguyên thủy trong Lạc thư, ta có:

 

Số 6: Vị trí nguyên thủy ở phía TÂY BẮC, và trong trạch vận này cũng tới đóng tại khu vực TÂY BẮC.

Số 7: Vị trí nguyên thủy ở phía TÂY, và trong trạch vận này cũng tới đóng tại phía TÂY.

Số 8: Vị trí nguyên thủy ở ĐÔNG BẮC, và trong trạch vận này cũng tới đóng tại ĐÔNG BẮC.

Số 9: Vị trí nguyên thủy ở phía NAM, và trong trạch vận này cũng tới đóng tại NAM.

Số 1: Vị trí nguyên thủy ở phía BẮC, và trong trạch vận này cũng tới đóng tại BẮC.

Số 2: Vị trí nguyên thủy ở TÂY NAM, và trong trạch vận này cũng tới đóng tại TÂY NAM.

Số 3: Vị trí nguyên thủy ở phía ĐÔNG, và trong trạch vận này cũng tới đóng tại ĐÔNG.

Số 4: Vị trí nguyên thủy ở ĐÔNG NAM, và trong trạch vận này cũng tới đóng tại ĐÔNG NAM.

Tất cả Hướng tinh đều đóng tại khu vực địa bàn nguyên thủy của chúng, tạo ra tình trạng “PHỤC NGÂM”.

 

“Phản ngâm, Phục ngâm, tai họa khó đương,” đó là cảnh báo về những trường hợp này. Trong “Trạch vận Tân án,” có nói rằng tai họa do “Phản ngâm, Phục ngâm” gây ra không kém cạnh “Thượng Sơn, Hạ Thủy”; nếu xâm phạm vào cách cục này, hậu quả có thể là người chết và tài sản mất hết. Do đó, “Phản ngâm, Phục ngâm” được xem là một cách cục rất nguy hiểm đối với cả dương trạch và âm trạch, được chia thành hai loại khác nhau.

-Sơn tinh phạm “Phản ngâm hay Phục ngâm” (viết tắt là “Phản, Phục ngâm”): gây nguy hại cho nhân đinh trong nhà.

 

-Hướng tinh phạm “Phản, Phục ngâm”: gây nguy hại cho tài lộc và công việc.

 

Trong 2 loại Sơn, Hướng tinh phạm “Phản, Phục ngâm” ở trên thì còn phân ra 2 trường hợp như sau:

 

-Tất cả Sơn tinh (hay tất cả Hướng tinh) đều phạm “Phản ngâm” hay “Phục ngâm”. Như trong ví dụ 1 thì tất cả Sơn tinh đều bị “Phản Ngâm”. Trường hợp này được gọi là “Sơn tinh toàn bàn Phản ngâm”. Còn như trong ví dụ 2 thì tất cả Hướng tinh đều bị “Phục ngâm”, nên được gọi là “Hướng tinh toàn bàn Phục ngâm”.

 

-Trong trạch vận chỉ có 1, 2 Sơn tinh hay Hướng tinh là bị Phản ngân hay Phục ngâm. Lấy ví dụ như nhà hướng TỐN 135 độ, nhập trạch trong vận 8. Khi an Vận bàn thì sẽ thấy Vận tinh số 7 tới hướng. Nếu muốn an Hướng bàn thì phải lấy số 7 nhập trung cung xoay nghịch (vì nhà hướng TỐN là trùng với sơn DẬU của số 7, mà DÂU là âm hướng trong Tam nguyên Long) thì 6 đến TÂY BẮC, 5 đến TÂY, 4 đến ĐÔNG BẮC, 3 đến NAM, 2 đến BẮC, 1 đến TÂY NAM, 9 đến ĐÔNG, 8 đến ĐÔNG NAM. Trong tất cả các Hướng tinh đó thì chỉ có số 6 là nằm tại địa bàn nguyên thủy của mình nên bị “Phục ngâm”, còn những Hướng tinh khác thì không phạm vào trường hợp này.

 

Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp “Phản, Phục ngâm” đều gây ra tai họa, mà còn phải phân biệt như sau:

 

-Trường hợp Sơn tinh phạm “Phản, Phục ngâm”: nếu khu vực có sinh, vượng khí của Sơn tinh có núi hay nhà cao thì nhà đó vẫn phát phúc, vượng nhân đinh, đồng thời có nhân tài xuất hiện. Nếu những khu vực này không có núi mà lại có thủy thì người trong nhà sẽ gặp những tai họa khủng khiếp. Ngược lại, nếu những khu vực có khí suy, tử của Sơn tinh mà lại có núi cao thì cũng là điều cực kỳ nguy hại cho những ai sống trong căn nhà đó. Nhưng nếu những khu vực này lại có thủy thì sát khí của Sơn tinh đã được hóa giải nên vô hại.

 

-Trường hợp Hướng tinh phạm “Phản, Phục ngâm”: Nếu khu vực có sinh, vượng khí của Hướng tinh lại có thủy của sông, hồ, ao, biển hoặc cửa ra vào… thì nhà đó vẫn phát tài lộc, công việc làm ăn tiến triển tốt đẹp. Nhưng nếu những khu vực này không có thủy mà lại có núi thì sẽ làm cho nhà đó tán gia bại sản, cơ nghiêp lụn bại. Ngược lại, nếu những khu vực có suy, tử khí của Hướng tinh mà lại có thủy thì cũng chủ đại phá tài lộc, còn nếu có núi thì Hướng tinh nơi đó đã được hóa giải nên vô hại.

 

Cho nên khi đã biết những trường hợp “Phản, Phục ngâm”, cũng như những yếu tố tác động có thể làm cho chúng gây họa hoặc được hóa giải, chúng ta có thể tìm cách tránh né, như không cất nhà phạm vào cách cục đó, hoặc có thể lựa chọn địa hình bên ngoài, hay cấu trúc bên trong cho phù hợp để hóa giải hết (hoặc bớt) những điều xấu này.

 

 

 

Ví dụ: nhà tọa Cấn hướng Khôn, nhập trạch trong vận 8.

 

Nếu lập Hướng bàn thì sẽ thấy Hướng tinh toàn bàn “Phục ngâm” (xem lại ví dụ 2 ở trên). Nếu vì lý do gì đó mà vẫn phải xây và vào ở trong nhà này (tức không thể né tránh được) thì có thể tìm những nơi có vượng khí và sinh khí của Hướng tinh, xem địa hình bên ngoài nhà tại những nơi đó có sông, hồ, ao, biển không? Nếu có thì dù nhà này bị phạm “Phục ngâm” như thế nhưng vẫn vượng về tài lộc và có thể sống được. Ngược lại nếu những khu vực đó không có thủy thì phải thiết lập “thủy nhân tạo”, tức là phải mở cửa sau tại phía ĐÔNG BẮC (nơi có vượng khí số 8), xây hồ bơi tại khu vực phía BẮC (nơi có sinh khí số 1), để buồng tắm hay làm cầu thang tại khu vực phía NAM (nơi có sinh khí số 9)… Còn những nơi khác thì có thể làm phòng ăn, phòng khách, phòng ngủ, hoặc bỏ trống, hoặc chứa đồ… thì tài lộc của căn nhà này vẫn tốt và có thể phát triển lâu dài.

 

Riêng với “Phản, Phục ngâm” thì ngoài những trường hợp do Vận tinh số 5 của Tọa hoặc Hướng nhập trung cung xoay chuyển thuận hay nghịch mà tạo ra thì có 1 số trường hợp khác như sau:

 

-Vận tinh và Hướng tinh trong cùng 1 cung (hay trong tất cả 8 cung) đều cùng 1 số. Đây là trường hợp Hướng tinh Phục ngâm. ví dụ: nhà tọa TUẤT hướng THÌN kiêm CÀN-TỐN 4 độ, nhập trạch trong vận 2. Nếu an Vận bàn thì lấy số 2 nhập trung cung xoay thuận thì 3 đến TÂY BẮC, 4 đến TÂY, 5 đến ĐÔNG BẮC, 6 đến NAM, 7 đến BẮC, 8 đến TÂY NAM, 9 đến ĐÔNG, và 1 đến ĐÔNG NAM. Tuy Vận tinh số 1 đến hướng, nhưng vì nhà này kiêm nhiều, nên phải dùng số 2 làm Thế quái, nhập trung cung xoay thuận (vì nhà Hướng THÌN thì trùng với sơn NHÂM của số 1, thuộc dương trong Tam nguyên Long) thì 3 đến TÂY BẮC, 4 đến TÂY, 5 đến ĐÔNG BẮC, 6 đến NAM, 7 đến BẮC, 8 đến TÂY NAM, 9 đến ĐÔNG, 1 đến ĐÔNG NAM. Tức là tại mỗi vị trí thì những số của Vận tinh và Hướng tinh đều giống nhau (hay cùng 1 số).

 

-Vận tinh và Sơn tinh trong cùng 1 cung (hay trong tất cả 8 cung) đều giống nhau (hay cùng 1 số). Đây là trường hợp Sơn tinh Phục ngâm.

 

-Sơn tinh và Hướng tinh trong cùng 1 cung (hay trong tất cả 8 cung) đều giống nhau (hay cùng 1 số). Đây là trường hợp cả Sơn-Hướng tinh đều bị Phục ngâm.

 

Chính Thần và Linh thần

 

Nam Ly và Bắc Khảm, nơi có Chính Thần và Linh Thần là 2 hướng vượng khí trong vận 9, khu vực Nam và Bắc trong một Thành phố hay một vùng sẽ mang lại nhiều cơ hội thịnh vượng. Tuy nhiên, để đánh giá đúng, cần xem xét loan đầu, bố cục và quan trọng là thời vận mỗi người thông qua sinh thần bát tự.

 

Chính Thần

 

Trong Lạc Thư, địa bàn phân bố của 9 số được quản thủ ở các vận từ 1 đến 9. Mỗi số đều là Chính Thần đương vận và cai quản khu vực tương ứng trong vận đó.

 

Ví dụ, trong vận 1 Thượng nguyên, số 1 được coi là Chính Thần đương vận, và khu vực phía Bắc (tức là phương Khảm) sẽ là khu vực của Chính Thần trong vận đó. Tương tự, trong vận 2, số 2 là Chính Thần và khu vực phía Tây Nam (phương Khôn) là khu vực của Chính Thần.

 

Đối với số 5, vì nằm ở trung cung và không có phương vị cụ thể, nên trong 10 năm đầu, khu vực phía Tây Nam được chọn làm Chính Thần, và 10 năm sau, khu vực phía Đông Bắc làm Chính Thần.

 

Chính Thần cần núi cao hoặc thực địa vững chắc để có vượng khí của sơn mạch. Nếu có điều kiện như vậy, nhà cửa hoặc đô thị ở khu vực này sẽ phát triển và yên bình trong vận đó. Ngược lại, nếu khu vực của Chính Thần có cửa biển, ngã ba sông, ao, hồ, biển lớn… sẽ gặp nhiều vấn đề trong vận đó. Thủy nằm trong khu vực của Chính Thần được gọi là “LINH THỦY” (thủy thất vận chủ tai họa).

 

Ví dụ: Trong vận 8 Hạ nguyên, khu vực của Chính Thần là phía Đông Bắc (vì đó là phương vị của số 8). Nhà ở hoặc đô thị có núi từ xa tiến tới hoặc đất đai mạch lạc từ phía đó sẽ thịnh vượng trong vận 8. Ngược lại, nếu khu vực đó có cửa biển, hội tụ của hai dòng sông, hoặc có sông lớn chảy qua, nhà ở hoặc đô thị sẽ gặp nhiều khó khăn trong vận 8.

 

Linh thần

 

Là khu vực đối diện với khu vực của Chính Thần. Trong vận 1, khu vực của Linh Thần là phía Nam, do đó, dựa vào vị trí của Chính thần, ta có thể xác định khu vực của Linh Thần theo từng vận.

 

Ví dụ: Trong vận 8, phương vị của Linh thần sẽ nằm ở phía Tây Nam. Khu vực này cần có thủy cửa sông, hồ, cửa biển… để nhà ở, làng mạc, đô thị trở nên phồn thịnh. Thủy nằm trong khu vực của Linh Thần được gọi là “CHÍNH THỦY” (thủy tốt hay vượng thủy). Ngược lại, nếu có thế núi hoặc đất tiến tới, khu vực đó sẽ chứng kiến suy bại hoặc nhiều tai biến.

 

Những trường hợp ngoại lệ

 

Việc đánh giá khu vực của Chính Thần và Linh Thần, cũng như xác định các yếu tố cần có hay không cần có, chủ yếu là để đánh giá vận khí hưng, suy của một khu vực, một thành phố hay một quốc gia. Tuy nhiên, khi áp dụng vào vận khí của nhà ở, cần phải xem xét khu vực của các khí sinh, vượng hay suy, tử để xác định phương hướng nằm ở đâu. Sau đó, phối hợp với các phương vị của Chính Thần, Linh Thần để xác định nơi nào cần có thủy, nơi nào cần có núi. Quan trọng là không nhất thiết phải làm cho khu vực của Chính Thần có núi, còn khu vực của Linh Thần phải có thủy.

 

Ví dụ 1: Nhà tọa Mùi hướng Sửu, nhập trạch trong vận 8.

Nếu áp dụng nguyên lý về Chính Thần và Linh Thần, phía Đông Bắc cần có núi, phía Tây Nam cần có thủy. Tuy nhiên, vì vượng khí (của Hướng tinh) số 8 chiếu tới phía Đông Bắc, khu vực này cần có thủy, chứ không nên có núi. Nếu có núi, gia đình có thể gặp vấn đề về tài lộc, trong khi có thủy sẽ đảm bảo về sinh sống và làm ăn. Ngược lại, khu vực phía Tây Nam, mặc dù là khu vực của Linh Thần, nhưng do tử khí (của Hướng tinh) Ngũ Hoàng chiếu tới, nên không nên có thủy. Nếu có thủy, có thể gây hao tán tiền bạc và mang đến rủi ro sức khỏe hoặc tai họa nghiêm trọng. Nếu có núi ở khu vực này, mọi thứ sẽ trở nên tốt đẹp.

 

Ví dụ 2: Nhà tọa Ngọ hướng Tý, nhập trạch trong vận 8.

 

Nếu áp dụng nguyên lý về Chính Thần và Linh Thần, Hướng tinh số 7 tới phía Đông Bắc cần có núi, và Hướng tinh số 1 tới phía Tây Nam cần có thủy. Nhưng vì số 7 là suy khí của Vận 8, không nên có thủy ở nơi này. Đây cũng là khu vực của Chính Thần, cần có núi để đảm bảo vượng khí. Ngược lại, Hướng tinh 1 là sinh khí của vận 8 tới phía Tây Nam, nên cần có thủy ở đây. Đây là khu vực của Linh Thần, và nếu có thủy, sẽ chủ phát về tài lộc. Cho nên khu vực phía Tây Nam cần có thủy là tốt, còn có núi là không lợi.

 

Do đó, đối với nhà cửa, quan trọng nhất vẫn là phương vị của các phi tinh, sau đó mới phối hợp với nguyên lý của Chính Thần, Linh Thần để xác định nơi nào cần có núi, nơi nào cần có thủy. Chỉ khi đó, mọi sự mới được đảm bảo hoàn mỹ và tốt đẹp. Áp dụng những nguyên lý này một cách linh hoạt và đúng đắn sẽ tránh được nhiều sai lầm đáng tiếc và nguy cơ mang lại tai họa.

 

Hợp Thập

 

Trong việc lựa chọn hướng nhà hoặc mộ, có hai phương pháp phổ biến: chọn hướng sao để đạt được “Vượng Sơn, Vượng Hướng”, hoặc chọn kết hợp hướng để sử dụng Thế Quái để mang lại lợi ích cho địa hình. Ưu điểm của cả hai phương pháp này là tạo điều kiện cho sự thịnh vượng nhanh chóng trong tài vận và danh tiếng của ngôi nhà, đồng thời, nếu xây nhà hoặc lập mộ vào thời điểm đúng, có thể “táng (hoặc xây) vào tháng DẦN (tháng 1 Â.L) để tháng MÃO (tháng 2 Â.L) phát huy”.

 

Tuy nhiên, nhược điểm của cả hai là thời gian thịnh vượng ngắn ngủi, thường chỉ kéo dài trong khoảng một vận (tức là 20 năm). Để duy trì thịnh vượng, thường phải tu sửa lại nhà cửa hoặc mộ sau mỗi vận, nếu không, nguy cơ tai họa sẽ đe dọa, giống như trường hợp của Liêu kim Tinh thời đại Tống.

 

Liêu kim Tinh, người xuất thân từ gia đình hiệu quả, được giao nhiệm vụ làm việc tại nhà của Trương Minh Thúc, một đại quan. Vợ của Trương là con gái của Ngô Cảnh Loan, một danh sư Phong thủy hàng đầu. Thấy Liêu kim Tinh thông minh và xuất sắc nhưng lại phải đối mặt với khó khăn, người vợ quyết định truyền cho ông những bí lục của cha cô. Liêu kim Tinh, vì hoàn cảnh nghèo đói, quyết định tìm kiếm địa điểm có “Vượng Sơn, Vượng Hướng” để xây dựng mộ cho tổ tiên. Kết quả là gia đình ông trở nên thịnh vượng, danh tiếng vang dội, được coi là một vị thánh, và mọi người đều mời ông tư vấn về Phong thủy. Tuy nhiên, khi một gia đình giàu có biết đến, họ mời ông đến và sử dụng lễ thượng khách để hậu đãi, chỉ mong muốn ông tìm ra đất đai có lợi ích. Trong vòng 18 năm, Liêu kim Tinh đã tìm thấy 74 mảnh đất quý. Khi ông muốn trở về để tu sửa hoặc cải táng, nhà chủ đã tham lam, ép buộc ông ở lại thêm 4 năm nữa. Khi cuối cùng ông quay trở lại, đại họa đã xảy ra, tất cả con cháu ông đều qua đời, chỉ còn bà vợ già và hai đứa cháu nhỏ. Liêu kim Tinh, đau buồn quá, mắc bệnh và không mất nhiều thời gian sau đó ông cũng qua đời.

 

Nói vậy không phải là mọi cuộc “Vượng Sơn, Vượng Hướng” khi chuyển sang thất vận sẽ gặp tai họa thảm khốc như thế. Thực tế, điều này phụ thuộc vào địa hình và Phi tinh của từng địa điểm cụ thể. Tuy nhiên, nó chỉ ra nhược điểm của phương pháp này là không ổn định lâu dài, do đó, các chuyên gia Phong thủy sau này đã tìm kiếm các phương pháp khác có khả năng đảm bảo sự thịnh vượng của gia đình trong thời gian dài hơn phương pháp “Vượng Sơn, Vượng Hướng”. Một trong những phương pháp đó chính là “Hợp Thập”.

 

Nói về “Hợp Thập,” đó là khi trong các vận-sơn-hướng tinh, có 2 trong 3 số đó cộng lại (hợp) thành 10 (thập). Có 2 tình thế “Hợp Thập” xảy ra giữa Vận, Sơn và Hướng tinh như sau:

 

1/ Vận tinh và Sơn tinh cộng lại thành 10: Ví dụ, trong một cung với các vận-sơn-hướng tinh 9-1-3, thì vận tinh 9 + Sơn tinh 1 = 10, đó là tình huống “Hợp Thập” giữa Vận tinh và Sơn tinh.

 

2/ Vận tinh và Hướng tinh cộng lại thành 10: Chẳng hạn, trong một cung có các vận-sơn-hướng tinh 8-6-2. Bởi vì Vận tinh 8 + Hướng tinh 2 = 10, đó là sự “Hợp Thập” giữa Vận tinh và Hướng tinh.

 

Cả 2 trường hợp trên đều đòi hỏi tất cả các cung phải có sự “Hợp Thập” thì mới có hiệu lực, được gọi là “toàn bàn Hợp thập.” Nếu chỉ có sự “Hợp Thập” ở 1 hoặc 2 cung, thì không đáng kể lắm.

– Ví dụ 1: Nhà tọa TÝ, hướng NGỌ (tức 180 độ), nhập trạch trong vận 7.

Nếu lấy trạch vận thì tất cả các cung, Vận tinh và Sơn tinh đều cộng lại thành 10. Đây là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh và Sơn tinh.

– Ví dụ 2: Nhà tọa NGỌ hướng TÝ (tức 0 độ), nhập trạch trong vận 7.

Nếu lấy trạch vận thì tất cả các cung, Vận tinh và Hướng tinh đều cộng lại thành 10. Đây là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh và Hướng tinh.

 

Tổng cộng có 12 tình huống toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh và Sơn tinh, cũng như 12 tình huống Hợp thập giữa Vận tinh và Hướng tinh.

 

* Giữa Vận tinh với Sơn tinh:

– Vận 1: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.

– Vận 3: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.

– Vận 4: Tọa CANH hướng GIÁP.

– Vận 6: Tọa GIÁP hướng CANH.

– Vận 7: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.

– Vận 8: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.

– Vận 9: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.

 

* Giữa Vận tinh với Hướng tinh:

– Vận 1: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.

– Vận 2: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.

– Vận 3: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.

– Vận 4: Tọa GIÁP hướng CANH.

– Vận 6: Tọa CANH hướng GIÁP.

– Vận 7: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.

– Vận 9: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.

 

Ngoài hai tình huống Hợp thập giữa Vận-Sơn-Hướng tinh như đã mô tả ở trên, còn một tình huống Hợp thập đặc biệt khác. Đó là khi trong một trạch bàn, Sơn tinh của một cung cộng với Hướng tinh của cung đối diện thành 10. Điều này yêu cầu Sơn tinh của tất cả 8 cung (trừ Sơn tinh tại trung cung) đều phải “hợp” với Hướng tinh của cung đối diện thành 10. Đây được gọi là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Sơn và Hướng tinh.

 

– Ví dụ: nhà tọa CẤN hướng KHÔN (tức hướng 225 độ), nhập trạch trong vận 5. Nếu xem xét trạch vận, ta thấy:

– Sơn tinh 5 ở phía TÂY NAM + Hướng tinh 5 ở phía ĐÔNG BẮC = 10;

– Sơn tinh 1 ở phía TÂY + Hướng tinh 9 ở phía ĐÔNG = 10.

– Sơn tinh 9 ở phía TÂY BẮC + Hướng tinh 1 ở phía ĐÔNG NAM = 10.

 

– Sơn tinh 4 ở phía BẮC + Hướng tinh 6 ở phía NAM = 10.

– Sơn tinh 2 ở phía ĐÔNG BẮC + Hướng tinh 8 ở phía TÂY NAM = 10.

– Sơn tinh 6 ở phía ĐÔNG + Hướng tinh 4 ở phía TÂY = 10.

– Sơn tinh 7 ở phía ĐÔNG NAM + Hướng tinh 3 ở phía TÂY BẮC = 10.

– Sơn tinh 3 ở phía NAM + Hướng tinh 7 ở phía BẮC = 10.

 

Ngoại trung cung, nếu xem xét cũng thấy Sơn tinh 8 + Hướng 2 = 10, đây là một trong những trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Sơn tinh và Hướng tinh.

 

Vì đây là trường hợp cực kỳ đặc biệt, chỉ xảy ra trong 6 trường hợp và chỉ trong Vận 5 cho những nhà có tọa-hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN, THÂN-DẦN, DẦN-THÂN, GIÁP-CANH, CANH-GIÁP.

 

TÁC DỤNG CỦA HỢP THẬP

 

Hợp thập là việc sử dụng số mười để kết nối với Ngũ Hoàng ở trung cung, hình thành “Thiên tâm Thập đạo” của Lạc thư và Hậu thiên Bát quái. Với Kỷ (10) thuộc Địa và Ngũ (5) là Mậu thuộc Thiên, việc kết hợp Kỷ (10) tại tám cung với Ngũ (5) tại Thiên tâm (chính giữa) tạo ra sự kết hợp giữa Thiên-Địa, Phu-Phụ, Âm-Dương. Như Thẩm trúc Nhưng nói, đây là “tượng trưng cho sự thần diệu, sự thần diệu dùng số để biểu hiện, một Âm, một Dương là đạo vậy.” Hai khí này giao cảm, tạo nên sự hình thành và phát triển không ngừng, đồng thời mang lại sự thịnh vượng và may mắn. Công dụng của Hợp thập đều nhấn mạnh vào sức mạnh của Mậu-Kỷ, khí vận được điều này thì mọi thứ trở nên thuận lợi, vận đạt tốt đẹp.

 

Vì vậy, nơi nào có Hợp thập, có thể kích thích sự thông quái, khiến cho toàn bàn đạt đến tình trạng Hợp thập đầy đủ, từ đó biến cả môi trường đang suy giảm (do không có sự vượng khí tới tọa-hướng) thành trạng thái thịnh vượng và phát triển.

 

Tuy nhiên, không phải tất cả các nhà có tình huống Hợp thập đều có thể tận dụng được, chỉ có những nhà hội tụ đủ các yếu tố cần thiết mới có thể thịnh vượng. Điều này sẽ được bàn luận chi tiết trong dịp khác. Nếu không, kết quả có thể chỉ là bình thường hoặc thậm chí là suy bại.

 

Một số người tin rằng những nhà có sự Hợp thập giữa Vận tinh và Sơn tinh sẽ thịnh về nhân định, trong khi Hợp thập giữa Vận tinh và Hướng tinh sẽ mang lại tài lộc. Tuy nhiên, họ có thể không để ý rằng khi đã có tình huống Hợp thập (bất kể giữa Vận tinh với Sơn hay Hướng tinh), toàn bàn đã trở nên thông quái với trung cung (Thiên tâm). Sự kết hợp của hai khí âm-dương Mậu-Kỷ đã làm cho cả Sơn và Hướng đều thịnh vượng và ngược lại. Thẩm trúc Nhưng đã nói, “khí vận mà được điều này thì mọi thứ hanh thông, vận vận tốt đẹp,” không chỉ là vấn đề về đinh vượng hay tài lộc mà còn là sự thịnh vượng và hòa hợp.

 

Cuối cùng, ngoài các cách Hợp thập của Phi tinh đã được đề cập trước đó, còn có cách Hợp thập theo hình cục của Loan đầu. Theo cách này, việc lai long ở phía sau và hướng thủy ở phía trước có thể hợp với tọa-hướng của căn nhà để tạo thành một đường thẳng, đặt nhà ở trung tâm của địa thế để lấy Thiên tâm. Điều này giúp cả hai bên được phân chia đồng đều, tạo thành một trường hợp Hợp thập theo địa hình. Tuy nhiên, cách này đòi hỏi tọa-hướng của căn nhà cũng phải thịnh vượng khí của Sơn-Hướng tinh, tức là thực chất chỉ là một trường hợp “Vượng sơn, vượng hướng” thông thường. Mặc dù vậy, vì hình cục đắc “Thiên tâm thập đạo,” nó có thể làm cho đăng vận mạnh mẽ hơn so với những cuộc “Vượng sơn, vượng hướng” bình thường, và cũng không dễ suy tàn nhanh chóng khi thất vận. Tuy nhiên, để đạt được cách Hợp thập theo hình cục, căn nhà cũng phải lập tọa-hướng theo đơn hướng, không thể kiêm hướng. Nếu kiêm hướng, sẽ làm phá bể Thiên tâm thập đạo và gây ra nhiều vấn đề không may. Do đó, chúng ta nên chọn cách “Vượng sơn, vượng hướng” như thường lệ hoặc sử dụng phương pháp Thế quái, thay vì tham lam với cách Hợp thập và rủi ro mang lại nhiều tai họa sau này.

Tam Ban Xảo Quái

 

Nếu nói về các cách cục giúp trạch vận của căn nhà trở nên lâu dài và bền bỉ, ngoài cách “Hợp Thập,” chúng ta còn gặp “Tam Ban Quái.”

 

Thuật ngữ “Tam Ban Quái” xuất phát từ việc các vận-sơn-hướng tinh tại mỗi cung có thể liên kết với nhau theo các chuỗi nhất định, như 1-2-3, 2-3-4, 3-4-5, và còn có thể tạo thành chuỗi số cách đều nhau 3 số như 1-4-7, 2-5-8, 3-6-9. Chuỗi số liên tục được gọi là “Tam Ban Quái,” trong khi chuỗi số cách đều nhau 3 số được gọi là “Phụ Mẫu Tam Ban Quái.”

 

Trong “Phụ Mẫu Tam Ban Quái,” chúng ta có hai loại: “Thất Tinh Đả Kiếp” và “Tam Ban Xảo Quái.” Trong phần này, chúng ta chỉ tập trung vào “Tam Ban Xảo Quái.”

 

Nếu lập trạch vận, ta sẽ thấy rằng tất cả các cung đều chứa một trong ba cặp số 1-4-7, 2-5-8, hoặc 3-6-9. Điều này làm cho căn nhà trở thành một “Tam Ban Quái” toàn bàn và được coi là có “Tam Ban Xảo Quái.”

 

Vì cách cục như vậy là rất hiếm, chỉ có 16 trong tổng số 1944 cách cục của Phi tinh thỏa mãn điều kiện của “Tam Ban Xảo Quái,” ví dụ như:

  • Nhà tọa CẤN hướng KHÔN: trong các vận 2, 5 và 8.
  • Nhà tọa KHÔN hướng CẤN: trong các vận 2, 5 và 8.
  • Nhà tọa DẦN hướng THÂN: trong các vận 2, 5 và 8.
  • Nhà tọa THÂN hướng DẦN: trong các vận 2, 5 và 8.
  • Nhà tọa SỬU hướng MÙI: trong các vận 4 và 6.
  • Nhà tọa MÙI hướng SỬU: trong các vận 4 và 6.

 

Trong Huyền không Phi tinh, những căn nhà đắc “Tam Ban Xảo Quái” được coi là kỳ diệu. Không chỉ vì mỗi con số cách nhau 3 số như “một chuỗi ngọc đính liền nhau, không chút gượng ép,” như Trạch vận Tân án đã nói, mà còn bởi mỗi cặp số trong ba cặp đó đều đại diện cho Thượng Nguyên – Trung Nguyên – Hạ Nguyên. Ví dụ, 1-4-7 thể hiện số của Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên tương ứng. Các cặp 2-5-8 và 3-6-9 cũng có sự tương ứng tương tự. Điều này không chỉ tạo ra sự thông khí đồng đều cho Tam Nguyên mà còn giữ cho không gian không bị rối loạn hoặc pha tạp. Sự kết hợp của ba cặp số cách nhau 3 có thể coi là lâu dài và quý khí, đồng thời giữ cho không gian không bị rối loạn hoặc pha tạp. Những căn nhà may mắn đắc “Tam Ban Xảo Quái” không chỉ duy trì vận khí lâu dài suốt Tam Nguyên Cửu Vận mà còn sở hữu quý khí, giúp dòng họ thịnh vượng và danh tiếng lâu dài. Tuy nhiên, nếu không biết cách sử dụng, cũng có thể chỉ là bình thường hoặc gặp nhiều tai họa tùy thuộc vào từng trường hợp.

Những trường hợp Tai Họa từ Tam Ban Quái

Mặc dù một số nhà đắc “Tam Ban Xảo Quái” không chỉ không hưởng lợi gì mà thậm chí liên tục gặp phải nhiều tai họa, điều này có thể được giải thích bởi các nguyên nhân sau đây:

  1. Thường xuyên, những căn nhà này chỉ có cửa trước, không có cửa sau. Lý do là vì nói chung, những căn nhà đắc “Tam Ban Xảo Quái” thường xuyên phải đối mặt với hiện tượng “Thượng Sơn, Hạ Thủy,” nơi vượng tinh của Hướng tinh chiếu vào phía sau nhà, còn vượng tinh của Sơn tinh chiếu vào phía trước. Nếu phía sau nhà không có cửa hoặc không có yếu tố thủy như hồ tắm, thì vượng tinh của Hướng tinh đã gặp phải “Thượng Sơn,” gây khó khăn và bế tắc trong tài lộc. Nếu phía trước nhà có cửa nhưng lại là khu vực trống trải, thoáng đãng, thì vượng tinh của Sơn tinh sẽ bị “Hạ Thủy,” gây hại cho nhân định. Hơn nữa, trong số 16 cách cuộc “Tam Ban Xảo Quái,” đa số còn phải đối mặt với Phản-Phục Ngâm, làm tăng khả năng gặp tai họa. Vì vậy, cần phải có cổng, cửa hoặc nguồn nước ở khu vực có vượng khí của Hướng tinh và sử dụng phương pháp “Nhất Chính Đương Quyền” để giải quyết “Thượng Sơn, Hạ Thủy” và Phản-Phục Ngâm, tránh được tai họa (lưu ý rằng “Thượng Sơn, Hạ Thủy” của Phi tinh chỉ là về mặt hình thức, nghĩa là nếu Hướng tinh chiếu vào phía sau nhà, thì theo danh nghĩa, nó đã bị “lên núi,” tức là “Thượng Sơn.” Tuy nhiên, nếu phía sau nhà có thủy hoặc cửa đi, nó đã “gặp nước,” biến thành “Đáo Hướng,” chứ không còn là “Thượng Sơn” nữa. Tương tự, với Sơn tinh chiếu lên hướng trước, nó được gọi là “Hạ Thủy,” nhưng nếu phía trước có núi cao hoặc nhà lớn, Sơn tinh đã “gặp núi,” biến thành “Đáo Sơn.” Đối với Phản-Phục Ngâm, chúng chỉ gây ra tai họa trong trường hợp khí suy, tử).

 

  1. Phía sau nhà không có cửa và có núi cao hoặc nhà cao. Phía trước có cửa và khu vực mở, thoáng đãng, thì mức độ tai họa càng nặng.

 

  1. Nếu những vi phạm ở trên xảy ra và hướng nhà kiêm nhiều chức năng như cửa, bếp, bàn thờ… còn phạm vào Không Vong, thì tai họa sẽ trở nên nghiêm trọng.

 

  1. Nếu phía sau nhà không có cửa hoặc thủy, và cửa ở phía trước, mặc dù không nằm ngay ở đầu hướng, nhưng lại nằm trong khu vực làm tiết thoát khí của Hướng tinh ở đầu hướng (tức là Hướng tinh sinh ra Hướng tinh nơi cửa), thì những tai họa cũng sẽ xuất hiện.

 

  1. Những nhà tuy phía sau có cửa, nhưng lại bị nhà hàng xóm cao hoặc áp sát, phía trước tuy không có cửa, nhưng có sân trống hay thủy… thì cũng vẫn là cách cục phá bại và gặp nhiều tai họa.

 

Gần đây, một số chuyên gia Phong thủy lại đưa ra quan điểm rằng những căn nhà đắc “Tam Ban Xảo Quái” cần phải có hình dạng vuông vức, sao cho tất cả các cung của Bát quái đều nằm gọn trong căn nhà và chiếm một phần diện tích như nhau. Họ cho rằng chỉ có những căn nhà như vậy mới mang lại phúc lộc, trong khi những căn nhà không vuông vức sẽ gặp nhiều tai họa. Tuy nhiên, khi hỏi về lý do, họ thường chỉ trả lời rằng nếu các cung không đồng đều hoặc có một hoặc hai cung lọt ra ngoài cửu cung, thì Tam Ban Quái sẽ không đầy đủ, gây ra sự “không thông” và dẫn đến tai họa.

 

Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ “tiêu chuẩn” này, có thể thấy rằng họ cũng không rõ lý do tại sao những ngôi nhà đắc “Tam Ban Xảo Quái” cũng có thể gặp tai họa. Vì không tìm thấy giải thích, họ đưa ra “tiêu chuẩn” nhà cần vuông vức và kết hợp với mọi lý thuyết khác để tìm kiếm câu trả lời, bao gồm:

 

  • Về hình cục loan đầu: Các chuyên gia này cho rằng những ngôi nhà có hình dạng vuông vức được coi là tốt, tạo điều kiện cho khí lưu thông và ổn định, trong khi những ngôi nhà méo mó, lệch lạc được coi là xấu, gây bế tắc hoặc trì trệ, làm hỏng cuộc “Tam Ban Xảo Quái”.

 

  • Về vận khí: Phần lớn những cuộc đắc “Tam Ban Xảo Quái” xuất hiện trong các vận 2, 5, 8, tức là vận Thổ, nên nếu nhà vuông vức, tướng nhà sẽ hợp với nguyên vận (hình vuông thuộc Thổ), tạo điều kiện cho sự tốt đẹp.

 

  • Về phương vị: Chỉ những ngôi nhà ở trong tọa hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN (trục ĐÔNG BẮC – TRUNG CUNG – TÂY NAM) mới đắc “Tam Ban Xảo Quái”, và Ngũ hành của trục này đều thuộc Thổ. Do đó, hình dáng của căn nhà cần phải vuông vức để hợp với Ngũ hành của tọa hướng và trung cung, giúp thông khí hoặc tăng thêm điều tích cực và chế hóa điều tiêu cực.

 

Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy có nhiều trường hợp nhà đắc “Tam Ban Xảo Quái”, mặc dù có hình dạng vuông vức, nhưng vẫn phải đối mặt với những tai họa như mô tả trong một số ví dụ dưới đây:

 

Trường hợp 1: Ngôi nhà tọa SỬU hướng MÙI (210 độ), nhập trạch trong vận 6 (1965). Nhà hình chữ nhật, chiều dài mặt tiền là 9m, chiều sâu 4m5, có cửa trước ở khu vực phía TÂY NAM và cửa hông tại khu vực phía TÂY. Phía sau không có cửa, chỉ có nhà hàng xóm gần sau tường. Tuy nhìn vào tinh bàn có vượng khí Lục bạch của Hướng tinh tới phía sau, cửa trước hướng Cửu Tử, cửa hông hướng Ngũ Hoàng. Tuy nhiên, sau 2 năm ở, người ông nội mất, sau 8 năm người cha cũng mất (lúc đó chỉ 49 tuổi). Về mặt kinh tế, gia đình gặp khó khăn, và trong nhà luôn có người bệnh tật.

 

Trường hợp 2: Trong Trạch vận Tân án (trang 412), nhà tọa MÙI hướng SỬU kiêm KHÔN-CẤN 3 độ (hướng 33 độ), nhập trạch năm CANH NGỌ (1930, thuộc vận 4). Nhà hình vuông, phía sau không có cửa, cửa ra vào chỉ nằm ở phương KHẢM. Tinh bàn cho thấy vượng khí của Hướng tinh tới phía sau, hướng trước hướng Nhất bạch, và nơi cửa ra vào có Hướng tinh Tam bích. Tuy nhà đã gặp thất bại trong kinh doanh, xung đột với khách hàng, và bị tiên đoán có thể bị giặc cướp đến quấy nhiễu hoặc bị kẻ xấu vu khống, khuyên chủ nhân phải mở cửa và tạo đường đi phía sau hoặc tìm nhà khác để tránh tổn thất.

 

Trường hợp 3 (cũng trong Trạch vận Tân án, trang 202): Nhà của một đại phú gia, xây dựng vào vận 2, tọa CẤN hướng KHÔN (hướng TÂY NAM – 225 độ). Dinh thự này có quy mô hùng tráng, giống như lâu đài vua chúa. Nhà có cổng, cửa ra vào ở khu

 

Nếu lập tinh bàn, sẽ thấy phía ĐÔNG BẮC đắc vượng khí Nhị Hắc, phía NAM đắc sinh khí Tam bích, nên dù không biết kích thước, nhưng trong vận 2, vượng khí chiếu đến phía ĐÔNG BẮC, nơi có đại thủy mênh mông, “phát đạt vô hạn, tiến triển mạnh mẽ,” là nhà phát phúc duy nhất trên quần đảo. Tuy nhiên, qua vận 3, vượng khí kết thúc, kinh doanh gặp thất bại nặng, sự nghiệp sụp đổ, và chủ nhân đau buồn đến chết. Nhìn vào trạch vận này, Thẩm điệt Dân tiên sinh đã từng nhận định: “Toàn bộ cục diện này hợp thành Tam Ban Quái, nên vận 2 đại vượng, vận 3 vẫn có lợi. Nhưng khi sắp sang vận 4 thì sẽ thất bại nặng, chỉ e còn có tai họa khác đáng sợ hơn.”

Trường hợp 4: Ngôi nhà tọa KHÔN hướng CẤN kiêm THÂN-DẦN 5 độ (tức hướng ĐÔNG BẮC – 50 độ). Xây trong vận 8, bắt đầu ở từ đầu năm 2006, nằm trên tầng thứ 5 của một chung cư lớn. Cầu thang chung của tầng lầu tọa tại khu vực phía ĐÔNG NAM (so với căn hộ), đi từ đó vòng ra phía ĐÔNG rồi tới phía ĐÔNG BẮC trước nhà. Cửa trước nằm trong 2 cung SỬU-CẤN (đều thuộc ĐÔNG BẮC), còn cửa sau dẫn ra ban công (balcony) ở giữa 2 cung KHÔN-ĐOÀI (nhưng chủ yếu tại KHÔN). Bếp ở phía BẮC với chiều dài 9m và chiều rộng 7m.

 

Nếu xem xét bảng tinh bàn cho căn nhà, phía ĐÔNG NAM có 4-1 đồng cung, nơi này có cầu thang chung cho cả tầng lầu, tạo động khí mạnh mẽ, chủ nhân trong nhà có trình độ, công việc và tài lộc ổn định. Cửa sau nhận vượng khí Bát bạch, tuy nhiên, vì không có đường dẫn khí, nên chỉ là tạm được chứ không tốt. Cửa trước đối mặt với hướng tinh Ngũ Hoàng, gây tai họa và vấn đề về sức khỏe. Bếp ở phía BẮC chịu tác động của hướng tinh Thất xích, ảnh hưởng đến khí huyết và mang theo tai họa về đường con cái. Vì vậy, sau khi chuyển đến ở, người vợ phát bệnh về khí huyết và mất thai.

 

Tổng kết qua 4 trường hợp trên, chúng ta thấy rằng ngay cả với những nhà đắc “Tam Ban Xảo Quái”, yếu tố quyết định họa và phúc vẫn là cổng, cửa và vị trí có sơn-thủy… chứ không phải là hình dạng vuông vức của căn nhà. Thậm chí trong trường hợp 3, dù không biết hình dạng căn nhà nhưng nếu nó bị thiên lệch, tại sao vận 2 và 3 vẫn phát phúc, còn nếu vuông vức, tại sao vận 4 lại hóa thành tro bụi? Do đó, nguyên nhân tạo ra họa và phúc vẫn nằm ở cổng, cửa và những vị trí có sơn, thủy… mà thôi. Ngoài ra, có một số trường hợp nhà đắc “Tam Ban Xảo Quái” cũng yêu cầu việc vuông vức, nhưng để đáp ứng những yếu tố khác, chứ không phải do cách cục này. Cuối cùng, mặc dù trong lý thuyết thường nói rằng những ngôi mộ hay nhà có được cách cục này sẽ được “thông khí” và trải qua Tam Nguyên Cửu Vận, nhưng để đạt được sự “thông khí”, cần phải thoả mãn một số điều kiện cần thiết để phúc lộc trở nên bền vững và lâu dài.

 

Vấn Đề Quân Bình Thủy-Hỏa

 

1.   Từ Tiên thiên tới Hậu thiên Bát quái:

 

Chúng ta hiểu rằng, vũ trụ ban đầu chỉ là một không gian trống rỗng, và chỉ khi có sự xuất hiện của Trời-Đất, mọi hiện tượng như ban ngày, ban đêm, sấm chớp, gió mưa, cũng như sự hình thành của đồi núi, sông, hồ mới xảy ra. Do đó, Tiên thiên Bát quái, được sắp xếp bởi Phục Hy, đặt quẻ CÀN (Trời) ở phía trên và quẻ KHÔN (Đất) ở phía dưới, ý chỉ rằng Trời-Đất là chủ nhân của vũ trụ, với gió (TỐN) và mưa (ĐOÀI) xuất hiện bên trên, sấm (CHẤN) và núi (CẤN) nằm phía dưới.

Mặt trời mọc ở phía ĐÔNG, do đó, quẻ LY (Hỏa) được đặt ở hướng đó, trong khi thủy, nguồn nước, chảy từ phía TÂY, tạo nên vị trí của quẻ KHẢM. Tiên thiên Bát quái được xem như là quy luật vận hành và thay đổi của vũ trụ, với Trời-Đất đứng ở giữa, tạo ra và điều khiển mọi sự.

 

Sau khi Trời-Đất hình thành, gió, mưa, sấm chớp, núi non, nước, và lửa đã xuất hiện, sự tương tác giữa Thủy-Hỏa bắt đầu, tạo nên sự sống. Mặc dù sự sống đã hình thành từ Thủy, nhưng chỉ nhờ vào sức ấm của Hỏa, sự sống mới có thể được duy trì, tồn tại và phát triển. Vì vậy, Văn Vương nhà Chu (khoảng hơn 1,000 năm trước Công Nguyên) khi đưa ra Hậu thiên Bát quái đã đặt 2 quẻ KHẢM (Thủy) – LY (Hỏa) thay thế vị trí của CÀN-KHÔN để kiểm soát Ngũ hành, tạo ra chuỗi tương sinh theo chiều kim đồng hồ: Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, và Kim sinh Thủy, quay trở lại ban đầu. Điều này có nghĩa là từ Thủy, sự sống mới có thể nảy sinh, sau đó, sức ấm từ Hỏa giúp mọi thứ phát triển mạnh mẽ. Do đó, người ta thường nói “Thủy là nguồn sống của mọi thứ, Hỏa là cha của mọi thứ”. Nếu không có Thủy, sự sống sẽ không xuất hiện, và nếu không có Hỏa, sự sống sẽ không phát triển. Tương tác giữa Thủy-Hỏa là chìa khóa mở cửa cho sự nảy sinh và phát triển của mọi thứ, cũng như sự sống trên trái đất.

 

Sự hình thành của Hậu thiên Bát quái đánh dấu bước tiến quan trọng và vượt bậc trong nền văn minh và khoa học Đông Á. Đồng hành với Tiên thiên Bát quái, nó tóm gọn toàn bộ quá trình biến đổi, hình thành của vũ trụ từ trạng thái không gian vô hình đến khi sự sống xuất hiện và tồn tại trên mặt đất. Nếu Tiên thiên là quy luật biến đổi của Trời-Đất, thì Hậu thiên chính là quy luật biến đổi của sự sống

 

2.   Sự Cân Bằng Thủy-Hỏa

 

Mặc dù Thủy-Hỏa là nguồn gốc của sự sống và sự phát triển của vạn vật, nhưng chúng không thể tồn tại độc lập hay tự tạo ra mình. Luôn cần sự điều hòa và phối hợp giữa hai yếu tố này. Nếu chỉ có Thủy mà không có Hỏa, trái đất sẽ trở nên lạnh buốt đến mức cực độ, làm cho sự sống không thể phát sinh. Ngược lại, nếu chỉ có Hỏa mà không có Thủy, môi trường sẽ trở nên cực kỳ khô hanh, nóng bức, gây hại cho vạn vật hoặc ngăn chặn sự nảy sinh. Do đó, điều kiện cần để có sự sống là Thủy và Hỏa phải tương tác và cộng tác với nhau. “Tương tác” ở đây có nghĩa là chúng phải tồn tại trong các khu vực đối nghịch và tách biệt, không phải để đối đầu mà là để tương ứng và cân bằng. Vì vậy, trong Hậu Thiên Bát Quái, quẻ LY đặt ở hướng NAM, và quẻ KHẢM ở hướng BẮC, với LY thay thế cho CÀN (trong Tiên Thiên Bát Quái) nằm phía trên, và KHẢM thay thế cho KHÔN nằm phía dưới. Mặc dù có vẻ như chúng ở trong tình trạng đối nghịch, nhưng nếu quan sát kỹ, LY (1) và KHẢM (9) tạo thành một sự cân bằng âm-dương, Phu-Phụ “Hợp Thập” với nhau. Điều này có nghĩa là thông qua một quá trình xung đối mới có thể tương tác và duy trì cho nhau, giúp xây dựng và phát triển sự sống. Thủy-Hỏa không chỉ không thể tách rời, mà còn cần phải tương xứng và cân bằng, giống như một LY đối với một KHẢM trong Hậu Thiên Bát Quái, tức là một âm- một dương, một vợ- một chồng mới có thể tạo ra và nuôi dưỡng con cái. Vấn đề quan trọng khác là giữa Thủy-Hỏa phải có sự cân bằng, không được chênh lệch, chỉ có như vậy sự sống mới đạt được sự hài hòa, mọi sinh vật mới có thể phát triển mạnh mẽ không ngừng. Nếu có sự chênh lệch, sự sống sẽ trải qua nhiều biến động. Nếu Thủy nhiều hơn, Hỏa sẽ yếu, gây ra môi trường lạnh lẽo, làm cho sự sống khó có thể phát triển mạnh mẽ. Nếu Hỏa nhiều hơn, Thủy sẽ suy kiệt, sự sống dù có nhưng sẽ bị nhiệt Hỏa đe dọa và khó duy trì lâu dài. Nếu Thủy quá mạnh, Hỏa sẽ bị dập tắt, nếu Hỏa quá mạnh, Thủy sẽ bị hao hụt, tất cả đều là nguyên nhân dẫn đến sự hủy diệt.

Vì vậy, sự cân bằng Thủy-Hỏa là một vấn đề quan trọng, là chìa khóa quyết định quá trình sinh thái của vạn vật, là nguồn gốc bảo vệ và duy trì sức khỏe cũng như hạnh phúc của con người. Nhờ những phát hiện và nguyên lý về Thủy-Hỏa của Hậu Thiên Bát Quái, Đông y từ lâu đã nhận ra rằng thận (thuộc Thủy) là nội tạng đầu tiên xuất hiện trong cơ thể con người, hoặc các vấn đề về tim (thuộc Hỏa) có thể xuất phát từ thận, do đó, để chữa trị bệnh tim, cần phải chăm sóc thận. Hoặc nguyên nhân của các bệnh về gan (Mộc), Phế (Kim), dạ dày (Thổ)… cũng đều bắt nguồn từ thận hoặc tim… tức là cân bằng và tương tác giữa Thủy-Hỏa là nguồn gốc của bệnh tật, nguồn cội của sự sống và tử vong, chỉ thông qua việc duy trì sự cân bằng này mọi thứ mới có thể tồn tại và phát triển.

 

3.   Ứng Dụng trong Phong Thủy:

 

Những nguyên lý về Thủy-Hỏa trong Hậu Thiên Bát Quái không chỉ được áp dụng trong Đông Y và các lĩnh vực khoa học Đông phương, mà còn được áp dụng mạnh mẽ và hiệu quả trong lĩnh vực Phong thủy. Như đã biết, đối với ngôi nhà, cổng, cửa ra vào, đường phố, ao hồ xung quanh, phòng tắm trong nhà… đều thuộc về Thủy. Ngược lại, bếp, cửa sổ, và các vật dụng sử dụng điện, ngọn lửa… đều thuộc về Hỏa (việc cửa sổ thuộc về Hỏa là do nó chỉ được sử dụng để chiếu sáng, không phải là lối đi ra vào. Chính vì lẽ này, phái Phong thủy Mật tông đưa ra quan điểm rằng nếu cửa sổ bẩn thì người trong nhà có thể mắc bệnh về mắt, vì mắt thuộc về Hỏa. Nhiều phái Phong thủy còn đòi hỏi số lượng cửa sổ và cửa ra vào phải tương ứng, mỗi cửa ra vào chỉ được có tối đa 3 cửa sổ, để tạo ra sự cân bằng giữa Thủy (cửa ra vào) và Hỏa (cửa sổ). Nếu nhà có quá nhiều cửa sổ, người trong nhà có thể trở nên quá năng động hoặc cứng nhắc, hung hãn (do Hỏa quá nhiều)…). Thủy là nguồn gốc của sự sống, nên ít nhất một ngôi nhà cũng cần phải có một cửa ra vào để có thể ổn định sự sống. Điều này chưa kể nếu cửa được đặt ở một vị trí đắc địa theo khí của Hướng tinh (tức là đắc địa “Thủy”), thì tài lộc của ngôi nhà đó sẽ phồn thịnh (vì Thủy là nguồn sống của mọi sinh linh, đặc biệt là con người, liên quan đến tài vụ, đồ ăn uống). Tuy nhiên, nếu chỉ có một cửa ra vào, và bốn phía đều kín đáo, tối tăm, thì dù có có nhiều của cải, sức khỏe cũng sẽ yếu kém, cuộc sống trở nên ảm đạm (do thiếu Hỏa). Chính vì lẽ đó, nhiều ngôi nhà buộc phải có cửa sổ để ánh sáng tỏa vào. Tuy nhiên, ánh sáng chỉ là một nguồn Hỏa gián tiếp, vì vậy dù có nhiều ánh sáng, không chắc đã đạt được sự cân bằng Thủy-Hỏa, đặc biệt nếu xung quanh nhà có đường đi, ao hồ, bể nước… trong nhà. Vì vậy, hầu hết những ngôi nhà đều cần phải sử dụng bếp, là nguồn cung cấp Hỏa trực tiếp để tạo ra sự cân bằng Thủy-Hỏa ngay trong môi trường sống. Trong Hậu Thiên Bát Quái, Hỏa được xem là nguồn tăng trưởng và phát triển của mọi sinh linh, và bếp thường là nơi sử dụng Hỏa nhiều nhất trong một ngôi nhà, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của những người sống trong ngôi nhà đó. Vì vậy, nếu biết cách đặt bếp để tăng cường sức Hỏa, hoặc tạo ra sự cân bằng giữa Thủy-Hỏa trong nhà, sức khỏe của mọi người trong gia đình sẽ được duy trì tốt, ngược lại, nếu không thể xây dựng được sự cân bằng, sẽ dẫn đến tình trạng “Thủy vượng, Hỏa suy” hoặc ngược lại, làm cho sức khỏe trở nên yếu kém.

Cũng có trường hợp ngôi nhà có cổng, cửa lớn, được sinh ra ở vị trí đắc địa, có khí vượng, mà xung quanh lại có sông, hồ, biển lớn… cũng vượng khí, tức là “Thủy cục” của ngôi nhà đó rất phồn thịnh. Trong trường hợp này, dù bếp được thiết kế tốt đến đâu (như cách xa buồng tắm, bồn rửa chén, bể nước…), thì vẫn sẽ bị vượng Thủy của ngôi nhà đó áp đặt. Do đó, để khắc phục sự cân bằng Thủy-Hỏa, bếp cần phải được đặt ở những nơi có khí sinh, vượng của Sơn tinh, như vậy mới có thể chế ngự được vượng Thủy của ngôi nhà, và Hỏa sẽ không bị áp đặt bởi Thủy. Điều này là do Sơn tinh (bất kể là hành gì) khi sinh ra, vượng khí đều lấy Thổ (núi) làm đầu (cũng giống như Hướng tinh nếu là khí sinh, vượng thì đều lấy Thủy làm trọng). Khi vượng khí Thủy của ngôi nhà quá mạnh, Hỏa khí của bếp sẽ không đối phó nổi, nhưng nếu đặt bếp ở nơi có vượng khí của Sơn tinh, nghĩa là mượn sức Thổ để kềm chế Thủy. Bên cạnh đó, Hỏa (của bếp) sinh Thổ, khiến cho khí Thổ đã vượng lại còn được sinh, tạo ra đủ sức để chế ngự Thủy và tái lập sự cân bằng Thủy-Hỏa. Vì vậy, người ta thường nói: “Thủy là nguồn của Hỏa, Hỏa là chủ của Thủy,” chính là do Hỏa, mặc dù bị Thủy khắc, nhưng vẫn có thể sinh ra Thổ để kềm chế Thủy. Những ngôi nhà mà đã tạo ra sự cân bằng Thủy-Hỏa mặc dù có khí Thủy mạnh mẽ thì thường mang lại may mắn, tài lộc, và thịnh vượng. Ngược lại, nếu không có sự cân bằng đó, Thủy sẽ áp đặt lên Hỏa, làm cho ngôi nhà có lẽ giàu có nhưng thường rơi vào tình trạng cô đơn hoặc tuyệt vọng.

Một trường hợp khác là khi người ta đặt bếp tại những khu vực có sinh, vượng khí của Hướng tinh. Đây là một sai lầm nguy hiểm vì bếp (Hỏa) đưa vào nơi có vượng Thủy, làm hao tổn tài lộc và định mệnh. Do đó, “Thẩm thị Huyền không học” cảnh báo về việc tránh đặt bếp ở nơi có vượng khí. Nếu những nơi này còn có bồn rửa chén hoặc bể nước… thì tài lộc có thể vượng nhưng định mệnh không thịnh. Ngược lại, nếu bếp đạt được điều kiện tiêu chuẩn như xa lánh Thủy, hoặc bếp lớn và được sử dụng thường xuyên, thì ngôi nhà có thể đông người nhưng tài lộc lại giảm sút. Vì vậy, việc đặt bếp ở khu vực có vượng khí của Hướng tinh có thể làm xung đột giữa Thủy và Hỏa, là vấn đề cần phải tránh.

 

Tổng cộng, khi đã hiểu được nguyên lý Thủy-Hỏa là cơ sở của sự sống, sẽ dễ dàng hiểu rõ hơn về các ứng dụng của bếp, cũng như cách đặt bếp phù hợp với từng trường hợp cụ thể và nhiều nguyên lý Phong thủy khác. Ngày nay, với kiến trúc và tiện nghi hiện đại, với các ngôi nhà có nhiều phòng tắm, giếng trời, hồ bơi, lò sưởi điện, hệ thống TV, máy hát, máy tính… nhiều người học Phong thủy có thể cảm thấy bối rối. Tuy nhiên, nếu quay lại với Hậu Thiên Bát Quái, những nguyên lý về Thủy-Hỏa sẽ giúp làm sáng tỏ mọi thứ. Do đó, như GS Nguyễn Hữu Lương, tác giả của bộ “Kinh Dịch với Vũ Trụ Quan Đông Phương” đã viết: Hậu Thiên Bát Quái là “kiệt tác vĩ đại nhất của Văn Vương… đó là một siêu phẩm của một bộ óc toán lý học xuất sắc của thế giới cổ kim,” và “Có Tiên Thiên mà không có Hậu Thiên thì quan niệm vũ trụ chưa được toàn diện,” đúng như vậy.

Cách Tìm Và Đo Hướng Nhà

 

Rất nhiều người khi mới bắt đầu nghiên cứu hoặc muốn áp dụng Phong thủy thường gặp khó khăn trong việc xác định và đo hướng nhà, đặc biệt là trong các khu đô thị không được thiết kế theo các trục Đông – Tây, Nam – Bắc. Gần đây, có nhiều sách Phong thủy đã đề cập đến vấn đề này và đưa ra nhiều phương pháp giúp người đọc có thể tìm hiểu về hướng nhà và tâm nhà. Tuy nhiên, đôi khi thông tin này có thể làm người mới học cảm thấy hoang mang, khó hiểu, không biết phải chọn “phương pháp” nào là đúng. Thực tế, nguyên nhân chính thường đến từ việc người mới học Phong thủy chưa có đủ kinh nghiệm, nên họ cảm thấy lạc lõng khi đối mặt với vấn đề này. Tuy nhiên, thông qua việc thực tập và quan sát, họ sẽ tự nắm bắt được quy luật này và không còn thấy khó khăn nữa. Dưới đây là một số phương pháp đơn giản có thể giúp những người mới học Phong thủy:

1.   Tìm hướng nhà:

  1. a) Sử dụng đường phố để xác định hướng: Cách đơn giản nhất là quan sát xem có đường phố nào xung quanh nhà không? Nếu có, mặt nào của căn nhà hướng về đường phố đó sẽ là hướng nhà, bất kể có cửa ra vào hay không! Lúc đó, mặt có cửa chỉ được coi là “hông nhà” mà thôi. Tuy nhiên, cách này cũng có những trường hợp phức tạp như sau:
  • Nếu nhà chỉ gần một con đường và mặt nhà có sân hoặc lối đi để ra vào thì mặt đó được xem là hướng nhà, dù có cửa hay không.
  • Nếu nhà chỉ gần một con đường, nhưng mặt đó lại được rào kín, không có lối đi ra, trong khi mặt khác có cửa, sân và lối đi vào một hẻm nhỏ khác thì phải tính mặt có sân, cửa là hướng của căn nhà.
  • Nếu nhà gần hai con đường, thì thường mặt nào gần con đường lớn hơn sẽ là hướng của căn nhà, dù có cửa hay không.
  • Nếu nhà gần hai con đường lớn như nhau, thì mặt nào có sân hoặc có lối đi cho mọi người trong nhà, hoặc khách đi bộ có thể đi qua lại thì được xem là hướng. Nếu cả hai mặt đều có, thì mới chọn mặt có cửa ra vào làm hướng.
  • Nếu nhà gần ba con đường… thì phương pháp chọn hướng tương tự, tức là trước hết xem mặt nào gần con đường lớn nhất, sau đó tính sân, lối đi cho mọi người và khách bộ hành, cuối cùng mới tính đến cửa ra vào. Do đó, phương pháp chung là lấy đường (động) làm hướng và lấy âm (tĩnh) làm tọa.
  1. b) Sử dụng lối đi để xác định hướng:

Đối với những căn nhà trong các chung cư lớn hoặc cao tầng, hướng nhà thường là mặt tiếp giáp với lối đi của tầng đó (hoặc của chung cư). Điều này đặc biệt đúng trong các chung cư khi mỗi tầng có nhiều căn hộ khác nhau. Tuy nhiên, với các chung cư mà mỗi tầng chỉ có một căn hộ, hướng của căn hộ cũng chính là hướng của chung cư, không có sự khác biệt. Nếu mỗi tầng có hai căn hộ, thì phụ thuộc vào việc có lối đi xuyên suốt hay không mà quyết định hướng của mỗi căn hộ là theo lối đi hay theo hướng chung của chung cư.

2.   Đo hướng nhà:

Nếu bạn muốn đo hướng nhà, bắt đầu bằng cách tìm một chiếc la bàn đủ lớn, có độ chia rõ từng độ. Đặt la bàn trước nhà và đứng nhìn thẳng về phía trước. Để đo đúng, hãy vẽ một đường thẳng song song với bức tường phía trước nhà, cách tường khoảng 2m. Tiếp theo, đứng sao cho 2 gót chân chạm lên đường thẳng đó. Chỉ khi bạn đứng như vậy, hướng nhìn thẳng về phía trước mới là hướng chính xác của nhà. Tiếp theo, giữ la bàn và nâng nó lên trời, cầm phải để la bàn phẳng, để kim la bàn có thể tự động xoay cho đến khi nó dừng lại. Lúc đó, mũi kim sẽ chỉ về hướng Bắc (0 độ). Giữ nguyên vị trí và đưa la bàn lên gần mắt, mắt nhìn thẳng về phía trước (xuyên qua mặt la bàn), bạn sẽ biết hướng nhà là bao nhiêu độ. Hãy lưu ý hai điều quan trọng sau:

1/ Giữ la bàn phẳng để kim có thể di chuyển linh hoạt. Nếu la bàn nghiêng, kim sẽ “kẹt” và dẫn đến sai lầm hướng.

2/ Mũi kim của la bàn phải luôn chỉ về hướng Bắc (0 độ), không được di chuyển. Thông thường, trên mặt la bàn có một mặt kiếng có thể xoay được, thường có một đường kẻ. Đưa la bàn lên gần mắt, giữ kim không di chuyển, và xoay mặt kiếng cho đến khi đường kẻ trên đó thẳng với phía trước. Tuyến độ tại đường kẻ đó sẽ là hướng nhà.

Cách Tìm Tâm Nhà Và Vẽ Sơ Đồ Nhà

Trong thế giới kiến trúc đa dạng và phức tạp của ngày nay, việc xác định tâm nhà trở nên phức tạp hơn để đáp ứng nhu cầu đa dạng của cuộc sống đô thị hiện đại. Mặc dù có nhiều sách Phong thủy giới thiệu các phương pháp tìm tâm nhà, nhưng với người mới học Phong thủy, việc xác định tâm nhà có thể gặp khó khăn và dễ mắc sai lầm. Dưới đây là một phương pháp đơn giản có thể giúp bạn tìm tâm nhà và vẽ sơ đồ nhà.

1.   Tìm tâm nhà:

Trong thời đại hiện đại, hình dạng của các ngôi nhà ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng, điều này khiến việc xác định tâm nhà trở nên không hề dễ dàng và đôi khi là một thách thức. Nếu bạn đối diện với những ngôi nhà có hình vuông hoặc chữ nhật, tìm tâm nhà chỉ là việc xác định điểm giao nhau của hai đường chéo.

Với những ngôi nhà có hình tam giác, lục giác, hình thang và những hình dạng phức tạp khác, việc tính tâm nhà tương đương với cách tính tâm của các hình đó trong bài toán học toán ở cấp tiểu học. Nhưng đối với những ngôi nhà có nhiều góc không đồng đều, việc xác định tâm nhà trở nên khó khăn hơn. Một phương pháp đơn giản để tìm tâm của những căn nhà này (bao gồm cả những ngôi nhà hình tam giác, lục giác…) là vẽ sơ đồ nhà lên giấy kẻ ô vuông theo tỉ lệ kích thước thực của căn nhà và in hình đó lên một tấm bìa cứng. Sau đó, cắt bỏ phần thừa của tấm bìa để chỉ giữ lại phần sơ đồ của căn nhà. Sử dụng một vật nhọn như đầu bút chì để nâng tấm bìa có sơ đồ lên và điều chỉnh cho đến khi nó cân bằng trên đầu vật nhọn. Điểm đó chính là tâm của căn nhà. Sử dụng bút chì để đánh dấu điểm đó, sau đó vẽ hai đường thẳng đi ngang qua điểm đó: một đường thẳng góc với hai bên hông nhà và một đường thẳng góc với hai mặt trước và sau của căn nhà. Đường thẳng thứ hai sẽ xác định tọa độ và hướng của căn nhà. Từ đây, bạn có thể chia thành 8 hướng và 24 phần xung quanh nhà để xác định vị trí chính xác của các yếu tố trong nhà trước khi tìm hiểu về Phong thủy hoặc cố gắng điều chỉnh nó.

2.   Vẽ sơ đồ nhà:

Để vẽ sơ đồ nhà, bạn cần chuẩn bị một tờ giấy trắng kẻ ô vuông và một cây thước đo. Đo độ dài và rộng của căn nhà để xác định tỷ lệ trên giấy, ví dụ, mỗi mét hoặc foot có thể tương ứng với 1 ô hoặc 2 ô trên giấy, phụ thuộc vào kích thước của căn nhà. Sau đó, bắt đầu vẽ bố trí của căn nhà, bao gồm cửa chính, cửa sau, cửa sổ, phòng khách, phòng ăn, bếp, phòng ngủ, phòng vệ sinh, cầu thang, v.v., theo từng khu vực trong khuôn viên của bốn bức tường. Nhớ đo kích thước và tính tỷ lệ trước khi bắt đầu vẽ, ví dụ, nếu bạn muốn vẽ vị trí của bếp, đo khoảng cách từ nó đến bức tường phía trước (hoặc phía sau) và từ nó đến bức tường bên phải (hoặc bên trái) và xác định hướng nhìn của nó.

Tiếp theo, áp dụng phương pháp tìm tâm nhà như đã mô tả ở trên để xác định tâm của nhà trên sơ đồ vừa vẽ xong. Kết hợp với cách tìm và đo hướng nhà (đã thảo luận ở phần trước), bạn sẽ có thể xác định được 8 hướng trên sơ đồ nhà. Vậy là bạn đã có một sơ đồ nhà hoàn chỉnh.

Chọn hướng nhà theo tuổi (tham khảo) nên dụng Bát tự tứ trụ

Chọn hướng nhà theo tuổi thường được thực hiện thông qua việc sử dụng Bát tự tứ trụ. Mọi người thường áp dụng phương pháp phân loại nhà và tuổi thành hai nhóm ĐÔNG – TÂY như sau:

Những người có năm sinh thuộc các quẻ CHẤN, TỐN, KHẢM, LY thuộc ĐÔNG TỨ MỆNH chỉ nên chọn những nhà hướng ĐÔNG, ĐÔNG NAM, BẮC và NAM, tức là những nhà thuộc ĐÔNG TỨ TRẠCH để đảm bảo sự thuận lợi.

Những người có năm sinh thuộc các quẻ CÀN, KHÔN, CẤN, ĐOÀI thuộc TÂY TỨ MỆNH, nên chọn những nhà hướng TÂY BẮC, TÂY NAM, ĐÔNG BẮC và TÂY, tức là những nhà thuộc TÂY TỨ TRẠCH.

 

Tuy nhiên, nhiều trường hợp người mặc dù “đúng hướng hợp với bản mệnh” nhưng vẫn gặp phải nhiều vấn đề, tai nạn, khốn khó như những ví dụ sau đây:

Trường hợp 1: Gia đình có cả hai vợ chồng sinh năm 1926 (BÍNH DẦN), mệnh KHÔN và TỐN. Họ chọn nhà hướng TÂY NAM (210 độ), tọa ĐÔNG BẮC, hợp với tuổi chồng nhưng không phù hợp với tuổi vợ. Sau thời gian sống ở đó, gia đình gặp nhiều khó khăn, tai nạn, và cuối cùng chồng mất sau một thời gian bệnh tật.

Trường hợp 2: Người nữ sinh năm 1950 (KỶ SỬU), mệnh LY. Cô chọn nhà hướng BẮC NAM (hoặc TÝ NGỌ), bếp nằm ở phía TÂY BẮC, hướng nấu nhìn về phía NAM. Sau vài năm sống ở đó, cô trải qua thất nghiệp, bệnh ung thư và cuối cùng qua đời.

Trường hợp 3: Gia đình có chồng sinh năm 1958 (MẬU TUẤT), mệnh CÀN và vợ sinh năm 1961 (TÂN SỬU), mệnh CHẤN. Họ chọn nhà hướng BẮC NAM từ cuối năm 2003. Bếp nằm ở phía BẮC và hướng nấu nhìn về phía NAM. Mặc dù nhà phù hợp với tuổi vợ, nhưng gia đình gặp nhiều khó khăn, mất việc, kiện tụng, và tâm trạng suy nhược tinh thần của vợ.

 

Những trường hợp trên và nhiều ví dụ khác cho thấy việc sử dụng tuổi để chọn hướng nhà có thể dẫn đến kết quả tiêu cực. Tuy nhiên, có phương pháp khác trong Phong thủy, bao gồm việc tìm vận khí của nhà theo Phi tinh và cân bằng ngũ hành trong Tứ trụ hoặc Bát tự, đưa ra cách lựa chọn hướng nhà dựa trên các yếu tố này thay vì chỉ theo tuổi.

1.   Dựa vào vận khí của căn nhà:

Điều này liên quan đến việc áp dụng phương pháp lập trạch vận theo Huyền Không Phi Tinh để đánh giá xem căn nhà có thuận lợi với vượng khí hay không trước khi quyết định chọn lựa. Thảo luận về vấn đề này là một quá trình phức tạp và chi tiết, đòi hỏi kiến thức chặt chẽ về lý thuyết Huyền Không.

Ví dụ: Trong trường hợp 1 ở trên, nhà hướng 210 độ (tức tọa SỬU hướng MÙI), vào năm 1965 nằm trong vận 6. Nếu sử dụng phương pháp lập trạch vận căn nhà theo Huyền Không Phi Tinh, kết quả có thể được mô tả như sau. Trong vận 6 (1964 – 1984), phía trước nhà có Sơn tinh số 6 và phía sau có Hướng tinh 6. Nhà này sẽ trải qua hiện tượng “Thượng Sơn Hạ Thủy” (tham khảo bài viết “Thượng Sơn Hạ Thủy” trong mục “Lý thuyết Phong thủy – Huyền không” để hiểu rõ hơn về vấn đề này). Ngoài ra, phía sau nhà không có cửa để thu hút vượng khí từ Hướng tinh 6, còn phía trước gặp phải Tử khí (Hướng tinh 9). Không chỉ thế, khu vực phía TÂY nhà còn có cửa hông và đối diện với sát khí Ngũ Hoàng (số 5), đó là lý do vì sao nhà này gặp nhiều tai họa, bệnh tật và mất người, dù hướng nhà hoàn toàn “hợp” với tuổi gia chủ.

Một điều cần lưu ý là nếu phía sau nhà này (tức khu vực phía ĐÔNG BẮC) có cửa hoặc ao, hồ, thì vận khí của căn nhà sẽ thay đổi và có thể tốt hơn. Vì vậy, ngoài việc sử dụng lập Phi tinh của trạch vận, cần phải kết hợp với thiết kế và địa hình bên trong và bên ngoài nhà để có thể đưa ra đánh giá chính xác về vận khí của mỗi căn nhà.

2.   Dựa vào sự cân bằng của Ngũ hành trong Tứ trụ:

Điều này đòi hỏi phải xem xét tất cả các yếu tố của năm, tháng, ngày, giờ sinh để xác định dụng thần và kỵ thần, từ đó đưa ra quyết định về hướng nhà phù hợp với mỗi người hoặc gia chủ.

Ví dụ: Trong trường hợp 2 ở trên, người phụ nữ đó sinh ngày 25/1/1950, lúc 9g tối. Nếu chuyển sang Can – Chi theo âm lịch, thì năm, tháng, ngày, giờ sinh sẽ là 8g tối:

KỶ SỬU ĐINH SỬU CANH THÂN BÍNH TUẤT

Ngày sinh CANH (Kim) là mệnh, mặc dù được THÂN (cũng thuộc hành Kim) hỗ trợ, nhưng sinh vào tháng SỬU là mệnh CANH gặp Mộ địa và lại còn bị BÍNH – ĐINH ở cả hai bên đều là Hỏa khắc mệnh, khiến mệnh này trở nên yếu đuối và bị khắc. Do đó, cần sử dụng KỶ (Thổ) để kiểm soát Hỏa và tạo nên dụng thần, QÚY (Thủy) ẩn sau SỬU để giảm bớt tác động của Hỏa, trong khi BÍNH – ĐINH Hỏa đều là kỵ thần. Trong khoảng thời gian từ 53 đến 62 tuổi, người này gặp đại vận QUÝ MÙI, Thiên khắc – Địa xung với cả năm và tháng sinh, khiến cho dụng thần và hỷ thần KỶ – QUÝ đều bị xung mất, chỉ còn lại BÍNH Hỏa khắc mệnh. Do Kim bị Hỏa khắc, dẫn đến vấn đề sức khỏe ở ngực hoặc phổi, là lý do người này mắc bệnh ung thư vú. Ngoài ra, việc ở nhà hướng NAM (thuộc cung LY – Hỏa), với mỗi hành động hàng ngày đều hướng vào phía của kỵ thần và hung thần Hỏa, làm cho mệnh càng bị khắc nặng. Khi qua năm MẬU TÝ, năm Hỏa vượng, và tháng 1 âm lịch là tháng GIÁP DẦN, Mộc sinh Hỏa, mệnh bị khắc mà không có con đường thoát khỏi.

Vì vậy, theo Tứ trụ, người này không nên chọn nhà hướng NAM hoặc ĐÔNG, mà thích hợp hơn nên chọn những căn nhà thuộc các hướng ĐÔNG BẮC, TÂY NAM (thuộc Thổ), hoặc BẮC (Thủy), cũng như TÂY và TÂY BẮC (Kim). Nếu chị ấy đã chuyển đến nơi khác, có thể tránh được những vấn đề trên. Thật đáng tiếc khi cô ấy không chấp nhận thay đổi.

 

Do đó, có thể thấy rằng ngay cả những người sinh cùng năm, tháng, ngày, giờ với người này, nếu hướng nhà khác nhau thì vận số của từng người cũng sẽ khác biệt, chứ không phải tất cả đều sẽ gặp vấn đề về ung thư và qua đời vào đầu năm 2008. Điều này là minh chứng cho việc “đức năng thắng số,” như mà cổ nhân thường nói.

 

Trường hợp này cũng là minh chứng khẳng định rằng không phải tất cả những người cùng tuổi đều thích hợp (hoặc không thích hợp) ở cùng một hướng nhà, mà còn phụ thuộc vào sự tương quan giữa dụng thần, hỷ thần và kỵ thần. Do đó, người có mệnh quái “phù hợp” với hướng nhà không đồng nghĩa với việc họ sẽ luôn hưởng lợi và mọi thứ đều thuận lợi, trong khi người có mệnh quái khác biệt với hướng nhà cũng không nhất thiết là sẽ thất bại hoàn toàn và “vùi xuống đất đen,” như nhiều người thường nghĩ.

Phương Pháp Chọn Hướng Nhà (Phần 1)

Trong phần đầu của Huyền Không phi tinh, việc lựa chọn tọa sơn và lập hướng cho một căn nhà (hoặc mộ) là một thách thức phức tạp, đòi hỏi sự tỉ mỉ và công phu đặc biệt.

Mặc dù nguyên tắc chung là bất kỳ tuyến vị nào đắc vượng tới hướng hay cửa cũng có thể được chọn dùng, nhưng Huyền Không còn đặt yêu cầu cao về việc hướng nhà phải thuần khí, không được pha tạp với các khí khác. Để đạt được điều này, căn nhà (hoặc mộ) cần phải làm chủ sơn và hướng, đồng thời tránh xa những tuyến Đại không vong và Tiểu không vong.

Trong trường hợp không thể chọn được hướng chính, và buộc phải kiêm hướng, độ kiêm cũng cần phải tuân theo quy tắc chặt chẽ, không thể chọn lựa theo ý muốn.

Bên cạnh đó, cần phối hợp với yếu tố sơn-thủy và địa hình chung quanh, cũng như xem xét vị trí của Thành môn ở 2 bên hướng như thế nào. Nếu mọi yếu tố đều thuận lợi, đó mới là một cục diễn hoàn hảo. Ngược lại, nếu có sự kém hiệu quả ở một số điểm, mức độ tốt đẹp sẽ giảm thiểu, do đó, mặc dù có thể ở, nhưng nên tìm kiếm cơ hội để điều chỉnh hoặc tìm kiếm những nơi khác tốt hơn.

Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét từng điều kiện để hiểu rõ hơn về phương pháp chọn hướng nhà.

Vấn đề thuần khí

Huyền Không Phong Thủy đặt sự coi trọng lớn vào vấn đề này, coi đây là yếu tố quyết định đầu tiên về hạnh phúc hay bất hạnh của một căn nhà. Để kiểm tra xem một căn nhà có thuần khí hay không, ta cần nhớ Tam Nguyên Long đã được nói trong những bài trước, và ở đây chỉ tóm tắt như sau:

THIÊN NGUYÊN LONG:

4 sơn dương: CÀN-KHÔN-CẤN-TỐN

4 sơn âm: TÝ-NGỌ-MÃO-DẬU

NHÂN NGUYÊN LONG:

4 sơn dương: DẦN-THÂN-TỴ-HƠI

4 sơn âm: ẤT-TÂN-ĐINH-QUÝ

ĐỊA NGUYÊN LONG:

4 sơn dương : GIÁP-CANH-NHÂM-BÍNH

4 sơn âm: THÌN-TUẤT-SỬU-MÙI

Một căn nhà được xem là Thuần khí khi tọa-hướng của nó nằm chính giữa một sơn, hoặc lệch về bên phải hoặc bên trái của tuyến vị đó (còn được gọi là Kiêm hướng) nhưng không vượt quá 3 độ. Nếu vượt quá 3 độ, sẽ làm cho khí của sơn bị kiêm nhiều, làm mất tính thuần khiết của khí tọa-hướng, điều này có thể giảm thiểu mức độ tốt đẹp hoặc gặp tai họa lớn, đặc biệt là nếu không đắc được vượng khí tới hướng hay cửa, đặc biệt là khi chủ nhân của nhà chết hoặc gặp nhiều vấn đề tổn thương.

Ví dụ 1: Căn nhà có hướng là 180 độ. Vì đây là tuyến vị chính giữa của sơn NGỌ (bao gồm từ 172 độ 6 đến 187 độ 5), nên nhà này được xem là Thuần khí.

Ví dụ 2: Căn nhà có hướng là 185 độ. Vì tuyến vị này đã lệch 5 độ so với tuyến chính giữa của cung NGỌ, nên sẽ không được coi là thuần khí nữa, và khi lập tinh bàn phải dùng đến “Thế quái”. Lúc đó nếu nhà đắc được vượng khí thì cũng khá tốt, nhưng nếu không đắc được vượng khí thì tai họa sẽ chồng chất do khí không thuần khiết gây ra.

Ngoài vấn đề tuyến vị của tọa-hướng không được kiêm quá nhiều, còn phải để ý đến vị trí của cổng, cửa và ngõ vào nhà. Nếu tọa-hướng nhà thuộc Thiên Nguyên Long thì cổng, cửa và ngõ vào nhà phải nằm trong khu vực của Thiên Nguyên. Nếu tọa-hướng nhà thuộc Nhân Nguyên thì cổng, cửa cũng phải nằm trong khu vực của Nhân Nguyên. Nếu tọa-hướng thuộc Địa Nguyên thì cổng, cửa cũng phải nằm trong khu vực của Địa Nguyên. Chỉ khi đạt được sự đồng thuận này, sự thuần khiết của khí mới được bảo đảm.

 

Ví dụ: Căn nhà tọa TÝ hướng NGỌ. Vì TÝ-NGỌ đều thuộc Thiên Nguyên Long, nên khi lựa chọn vị trí cho cổng, cửa cần phải đưa về những khu vực thuộc Thiên nguyên Long như TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU hay CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN. Nhưng nếu chúng nằm tại các sơn CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN thì đó là cách phối hợp âm hướng với dương khẩu, phúc lộc sẽ tốt đẹp và lâu dài hơn nếu cổng, cửa nằm tại các sơn TÝ, NGỌ MÃO, DẬU (vì âm hướng phối với âm khẩu thì âm khí quá thịnh, phúc khí không thể phát mạnh được).

Do đó, khi chọn hướng cho một căn nhà, ta cần tuân theo các bước sau:

 

  • Dùng la bàn để đo xem hướng nhà là bao nhiêu độ? Và nó thuộc tuyến vị chính giữa của mỗi sơn hay kiêm, và kiêm nhiều hay ít?
  • Xác định tọa-hướng của căn nhà là thuộc Nguyên Long nào? Và là âm hay dương?
  • Phối hợp với phương vị của cổng, cửa, ngõ vào nhà hay ngã ba, ngã tư gần nhà, sao cho chúng vừa phải đồng Nguyên, vừa phải phối hợp được giữa âm hướng với dương khẩu, hay giữa dương hướng với âm khẩu, cộng với vượng tinh tới hướng thì phú quý sẽ có đủ.

 

Nếu bất đắc dĩ không thể đạt được sự phối hợp giữa hướng và khẩu theo cách hoàn hảo, ít nhất cũng cần phải đạt được sự đồng thuận giữa khẩu và hướng, cộng với vượng khí chiếu tới hướng hay cửa, có thể sẽ hưng thịnh ít nhất trong một giai đoạn nào đó.

Phương Pháp Chọn Hướng Nhà (Phần 2)

Chính Sơn, Chính Hướng

 

Vấn đề đặt ra là nhà (hoặc mộ) phải giữ được sự thuần khiết của khí, điều này không chỉ yêu cầu sự đồng thuận giữa tọa-hướng và cổng, cửa, ngõ vào nhà với cùng một Nguyên Long mà còn đòi hỏi tuyến vị của tọa-hướng phải nằm chính giữa của mỗi sơn (hãy xem lại bài “24 SƠN-HƯỚNG VÀ TAM NGUYÊN LONG”). Nếu tuyến vị lệch sang phải hoặc sang trái quá 3 độ so với tuyến vị chính giữa, sẽ làm mất đi tính thuần khiết của khí tọa-hướng.

Một điều làm cho người mới tiếp xúc với Phong thủy cảm thấy bối rối là quan điểm một số trường phái, cho rằng tuyến vị chính giữa của mỗi sơn-hướng là xấu, có khí trường quá mạnh, không thể sử dụng được. Do đó, khi chọn tọa-hướng cho nhà (hoặc mộ), họ thường tránh chọn tuyến vị chính giữa mà luôn chọn tuyến vị kiêm 3 độ.

Điều này có thể do hiểu biết sai lầm về Phong thủy hoặc ảnh hưởng từ xã hội phong kiến. Trong quá khứ, chỉ có vua chúa và quan lớn mới được sử dụng những gì được coi là cao sang, tốt đẹp. Dân thường phải tránh xa và không “vi phạm” đến những điều này. Ngay cả trong việc xây dựng nhà cửa, cung điện, vua và quan lớn chỉ lấy tuyến vị chính giữa của sơn-hướng. Các công trình như dinh thự và lâu đài của các vua thường hướng chính từ TÝ (BẮC) đến NGỌ (NAM) mà không kiêm 3 độ. Vậy nên có thể các vua và những nhà Phong thủy đời xưa đã nhận ra giá trị của việc giữ sự thuần khiết của khí và chỉ họ mới được lựa chọn như vậy. Nhưng đối với nhà dân thường, họ luôn lựa chọn tuyến vị kiêm 3 độ, không thuần khiết bằng tầng lớp quý tộc.

 

Một ví dụ từ “Tòng sư tùy bút” của Khương Diêu (đệ tử của Tưởng đại Hồng) mô tả một trường hợp khi chủ nhân nhà chọn tuyến vị chính giữa và những người sau cố tình kiêm 3 độ. Kết quả, chủ nhân này gặp rủi ro và chết ngay sau khi táng mộ.

Kiêm Hướng

Những căn nhà có tuyến vị lệch từ 1 độ đến 7 độ 5 so với tuyến vị chính giữa (bất kể lệch sang bên phải hoặc bên trái) của một sơn đều được xem là Kiêm Hướng. Tuy nhiên, những căn nhà có tuyến vị lệch từ 1 đến 3 độ vẫn được xem là “chính sơn, chính hướng” vì khí vẫn còn thuần khiết. Còn những căn nhà có tuyến vị lệch từ 3 đến 6 độ, khí của sơn bên cạnh đã pha tạp với khí của tọa-hướng và tọa vị, nên khi lập tinh bàn cần phải dùng đến Thế Quái (đọc thêm trong bài “THẾ QUÁI”).

 

Kiêm Hướng là một phương pháp tạm dùng trong giai đoạn ngắn hạn và nên xây dựng lại nhà (hoặc mộ) theo hướng chính khi vận đổi. Nếu tọa-hướng đắc vượng khí, có thể phát triển lớn, nhưng khi gặp vận đen hoặc khí suy tử chiếu tới, có thể mắc phải tai họa nặng nề. Câu “Chính sơn, chính hướng lưu chi thượng, quá yêu ngộ hình trượng” trong “Thiên bảo Kinh” của Dương Quân Tùng cảnh báo rằng sự kiêm hướng cần phải hạn chế, không nên kiêm nhiều, vì có thể gây tai họa về hình ngục và lao tù.

 

Lưu ý rằng khi một căn nhà (hoặc mộ) kiêm hướng, chính tọa chính hướng của nó được gọi là “Chủ Sơn, Chủ Hướng”, còn tọa-hướng được kiêm gọi là “Chi Thần”. Cổng, cửa, lai, khứ thủy cũng phải cùng một Nguyên Long với “Chủ Sơn, Chủ Hướng”, không thể cùng Nguyên Long với “Chi Thần”.

 

Phương Pháp Chọn Hướng Nhà (Phần 3)

Đại Không Vong (Xuất Quái)

Tuyến Đại không vong là những ranh giới giữa 8 hướng trên la bàn, được chia đều trong 360 độ của một vòng tròn. Mỗi hướng chiếm khoảng 45 độ. Những tuyến nằm giữa 2 hướng được gọi là Đại không vong. Ví dụ, hướng BẮC bắt đầu từ 337 độ 5 đến 22 độ 5, và hướng ĐÔNG BẮC bắt đầu từ 22 độ 5 đến 67 độ 5. Các tuyến vị như 337 độ 5, 22 độ 5, 67 độ 5 là những tuyến Đại không vong.

Tổng cộng có 8 tuyến Đại không vong chính trên la bàn:

 

Tuyến 22 độ 5 (giữa BẮC và ĐÔNG BẮC).

Tuyến 67 độ 5 (giữa ĐÔNG BẮC và ĐÔNG).

Tuyến 112 độ 5 (giữa ĐÔNG và ĐÔNG NAM).

Tuyến 157 độ 5 (giữa ĐÔNG NAM và NAM).

Tuyến 202 độ 5 (giữa NAM và TÂY NAM).

Tuyến 247 độ 5 (giữa TÂY NAM và TÂY).

Tuyến 292 độ 5 (giữa TÂY và TÂY BẮC).

Tuyến 337 độ 5 (giữa TÂY BẮC và BẮC).

Ngoài 8 tuyến vị chính, những tuyến nằm gần và 2 bên của chúng trong khoảng 1 độ 5 cũng được xem là Đại không vong.

Ví dụ 1: Nhà hướng 21 độ. Vì nằm chỉ 1 độ 5 từ tuyến Đại không vong chính (giữa BẮC và ĐÔNG BẮC, tức tuyến 22 độ 5), hướng này bị phạm Đại không vong.

Ví dụ 2: Nhà hướng 23 độ 5. Do cũng chỉ cách tuyến Đại không vong chính 1 độ, nên cũng là tuyến Đại không vong.

Ví dụ 3: Nhà hướng 20 độ 5. Bởi vì cách tuyến Đại không vong chính 2 độ, nên không được xem là Đại không vong.

 

Theo Phong thủy Huyền Không, tất cả các tuyến Đại không vong đều mang tính chất xấu. Xây nhà hoặc mộ theo hướng này có thể dẫn đến tai họa như chết người, cô quả, hay thậm chí tuyệt tự. Về mặt tài lộc, có thể gặp phá sản hoặc lao tù do vấn đề về tiền bạc. Con người sống trong những ngôi nhà này có thể trở nên hẹp hòi, thô lậu, thiếu liêm sỉ hoặc gặp phải sự quấy rối của ma quỷ.

Tuyến Đại không vong được coi là “LẠC QUẺ” hoặc “XUẤT QUÁI” (tức là ra ngoài phạm vi 1 hướng), bởi vì tọa-hướng của căn nhà đã kiêm quá nhiều (từ 6 đến 7 độ 5), khiến khí của nó hoàn toàn bị pha tạp và biến chất. Những ngôi nhà này không có khí chủ, giống như những ngôi nhà không có người chủ. Những ngôi nhà thuộc tuyến Đại không vong dễ gặp nhiều rủi ro, như bị chi phối bởi tà khí, gặp sự quấy rối của ma quỷ, cũng như con người sống trong đó trở nên hẹp hòi, thô lậu, bần tiện, hay gian trá hơn. Chính vì lý do này, “Trạch vận Tân án” cảnh báo rằng những ngôi nhà hướng tuyến Đại không vong sẽ “tiến thoái đều khó, trở thành tiện cục (bần tiện), làm cho vợ chồng xung đột, anh em không hòa thuận, những người có văn nhân thì mắc bệnh tâm thần, và nhiều sự bất hạnh liên tiếp sẽ xảy ra”.

 

Phương Pháp Lựa Chọn Hướng Nhà (Phần 4)

Tiểu Không Vong

Tuyến Tiểu không vong, nếu tuyến Đại không vong là những tuyến nằm chính giữa 2 hướng, thì tuyến Tiểu không vong là những tuyến nằm chính giữa 2 sơn. Trên la bàn, chia 360 độ thành 8 hướng, mỗi hướng chiếm 45 độ, và trong mỗi hướng có 3 sơn, mỗi sơn chiếm 15 độ. Tổng cộng có 24 sơn trên la bàn, và do đó cũng có 24 tuyến Tiểu không vong chính như sau:

– Hướng BẮC: bao gồm các tuyến 352 độ 5, 7 độ 5 và 22 độ 5.

– Hướng ĐÔNG BẮC: các tuyến 37 độ 5, 52 độ 5 và 67 đô 5.

– Hướng ĐÔNG: gồm các tuyến 82 đô 5, 97 độ 5 và 112 độ 5.

– Hướng ĐÔNG NAM: các tuyến 127 độ 5, 142 độ 5 và 157 độ 5.

– Hướng NAM: bao gồm các tuyến 172 độ 5, 187 độ 5 và 202 độ 5.

– Hướng TÂY NAM: các tuyến 217 độ 5, 232 độ 5 và 247 độ 5.

– Hướng TÂY: bao gồm các tuyến 262 độ 5, 277 độ 5 và 292 độ 5.

– Hướng TÂY BẮC: các tuyến 307 độ 5, 322 độ 5 và 337 độ 5.

 

Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ, ta sẽ thấy tất cả những tuyến Tiểu không vong cuối cùng của mỗi hướng, như 22 độ 5 của hướng BẮC, 67 độ 5 của hướng ĐÔNG BẮC, 112 độ 5 của hướng ĐÔNG… chính là những tuyến Đại không vong.

Do đó, thực tế, những ngôi nhà hướng vào những tuyến Đại không vong sẽ luôn phải đối mặt với vấn đề của cả Tiểu không vong. Điều này làm tăng mức độ tai họa một cách mạnh mẽ hơn.

Ngoài 24 tuyến Tiểu không vong chính đã liệt kê, còn cần chú ý đến những tuyến nằm gần ranh giới của 2 sơn, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt như sau:

 

  1. Những tuyến nằm ở giữa 2 sơn, nhưng một sơn thuộc Địa nguyên Long và một sơn thuộc Thiên nguyên Long (vui lòng xem bài “24 sơn-hướng và Tam nguyên Long”): Tất cả những tuyến nằm gần tuyến Tiểu không vong chính trong khoảng cách là 1 độ 5 – bất kể ở bên trái hay bên phải – đều được coi là những tuyến Tiểu không vong.

Ví dụ: Hai sơn NHÂM và TÝ của hướng BẮC được chia cách bởi tuyến 352 độ 5. Đó là tuyến Tiểu không vong chính. Nhưng vì NHÂM thuộc Địa nguyên Long, còn TÝ thuộc Thiên nguyên long, nên tất cả những tuyến nằm cách tuyến 352 độ 5 trong phạm vi 1 độ 5 – bất kể ở bên phải hay bên trái của nó – như các tuyến 351 độ, 352 độ, 353 độ, 354 độ cũng đều là những tuyến Tiểu không vong. Nhưng các tuyến như 350 độ 5 hoặc 354 độ 5 thì lại không còn được coi là Tiểu không vong nữa, vì đã cách tuyến Tiểu không vong chính hơn 1 độ 5 rồi.

 

Cần lưu ý thêm là giữa Địa nguyên Long và Thiên nguyên Long trong cùng một hướng luôn tồn tại sự trái ngược âm-dương. Nếu Thiên nguyên Long là sơn âm, thì Địa nguyên Long sẽ là sơn dương, và ngược lại. Do đó, những tuyến Tiểu không vong nằm giữa 2 sơn (hướng) này còn được gọi là những tuyến “sai lạc âm-dương” hoặc “âm-dương sai thố”.

 

  1. Những tuyến nằm ở giữa 2 sơn, nhưng một sơn thuộc Thiên nguyên Long và một sơn thuộc Nhân nguyên Long: Chỉ có tuyến vị chính giữa 2 sơn mới bị coi là Tiểu không vong. Tuy nhiên, thực tế, những tuyến Tiểu không vong này thường không gây hại. Lý do là vì trong cùng một hướng, sơn thuộc Thiên nguyên Long luôn kết hợp âm-dương với sơn thuộc Nhân nguyên Long. Vì đã nằm trong cùng một hướng và có cùng một khí âm hoặc dương, nên dù nằm gần đường phân giới của 2 sơn, chúng vẫn không sợ khí bị pha tạp hoặc rối loạn.

Vì vậy, nguyên tắc chủ yếu của Huyền không vẫn liên quan đến khí thuần. Khí đã thuần thì có thể kiêm nhiều, còn khí không thuần thì dù chỉ là 1 độ cũng không kiêm, và những tuyến vị Đại-Tiểu không vong chỉ là những mức độ xác định sự trái lạc quẻ (Đại không vong) hoặc âm-dương (Tiểu không vong) đạt đến mức tối đa, độc hại cực kỳ mạnh.

Ví dụ: Hai sơn TÝ và QUÝ thuộc hướng BẮC được chia cách bởi tuyến vị 7 độ 5. Lý thuyết cho biết đó là tuyến Tiểu không vong chính. Nhưng vì TÝ là âm sơn, thuộc Thiên nguyên Long; còn QUÝ cũng là âm sơn, thuộc Nhân nguyên Long. Giữa chúng không có sự khác biệt về âm-dương (vì đều là âm sơn) hay tính chất (cùng thuộc hướng BẮC). Vì vậy, ngay cả những ngôi nhà có tuyến vị là 7 độ 5 (trùng với tuyến Tiểu không vong) cũng không sao cả.

 

  1. Những tuyến nằm giữa 2 sơn, nhưng một sơn thuộc Nhân nguyên Long và một sơn thuộc Địa nguyên Long: Đây chính là trường hợp của những tuyến Đại không vong đã được nói ở phần trước.

Vậy nếu xét kỹ, chỉ có 8 tuyến Đại không vong và 8 tuyến Tiểu không vong chính trên la bàn. Bên cạnh chúng, có thêm một số tuyến nằm trong khoảng cách 1 độ 5 ở cả hai bên đều được xem là Đại-Tiểu không vong. Cũng ngoài ra, những tuyến nằm giữa 2 sơn thuộc Thiên nguyên Long và Nhân nguyên Long thực tế không phải là Không vong. Còn những tuyến nằm giữa 2 sơn thuộc Nhân nguyên Long và Địa nguyên Long là trường hợp Đại không vong.

Về mức độ nguy hiểm, các hướng Tiểu không vong cũng gây ra nhiều tai họa cho những người sống trong ngôi nhà đó, như gia đình tan vỡ, ly dị, mất tài lộc, dễ bị kiện tụng, thị phi, bị buộc tội, người sống trong nhà cũng thường không chính trực, vi phạm pháp luật, hoặc có khuynh hướng đen tối, dễ gặp ma quỷ… Do đó, sách “Trạch vận tân án” thường mô tả rằng những ngôi nhà có tuyến Tiểu không vong (tức âm-dương sai thố) thường “tiến, thoái khó khăn, không thể xây dựng được uy quyền, danh tiếng. Thường xuyên gặp kiện tụng, thị phi, trở thành kết quả thất bại, mất công sức.”

Ngoài những tuyến Đại-Tiểu không vong đã nêu trên, trong một số tác phẩm còn đề cập đến những đường phân giới của 64 quẻ tiên thiên, và xem những tuyến đó là Đại không vong. Sau đó, gộp tất cả những tuyến đó, cộng với những tuyến Đại-Tiểu không vong chính và gọi chúng là “BẤT KHẢ LẬP” (tức là những tuyến không thể chọn để lập hướng nhà hoặc mộ).

 

Tuy nhiên, xem xét kỹ thì những đường phân giới của 64 quẻ tiên thiên thực tế cũng trùng với những tuyến vị “Phân châm” hoặc “Phân kim” trên Tưởng bàn (loại la bàn do Tưởng đại Hồng làm ra). Trong đó, cách tính để chia tuyến vị của 64 quẻ tiên thiên như sau: lấy 64 quẻ chia cho 8 hướng, mỗi hướng có 8 quẻ. Mỗi hướng tổng cộng có 45 độ, chia cho 8 quẻ thì mỗi quẻ chiếm 5 độ, còn dư 5 độ. Để phân chia đều, Tưởng đại Hồng đặt 5 quẻ tiên thiên vào phần giữa của mỗi hướng (tổng cộng 40 độ). Khu vực tiếp giáp giữa mỗi hướng để chừa ra mỗi bên là 2 độ 5 (tổng cộng 5 độ). Khu vực này được xem là khu vực “xuất quái” (ra khỏi quẻ hay hướng).

Vì vậy, tổng cộng độ số của 8 quẻ (40 độ) và khoảng trống ở gần ranh giới của 2 hướng (5 độ) là 45 độ, tức là đã bao hàm một hướng. Nếu tính như vậy, thì tất cả các tuyến vị chính giữa 24 sơn đều nằm trên đường phân giới của 64 quẻ Dịch.

 

Đây là lý do tại sao một số phương pháp Phong thủy, đặc biệt là phái Tam hợp, thường coi tuyến vị chính giữa 24 sơn là những tuyến “Đại không vong.” Khi lập hướng nhà hoặc mộ, họ thường tránh những tuyến vị này và lựa chọn sang phải hoặc trái 3 độ, không dám lấy đơn hướng.

Tuy nhiên, đây là một sai lầm. Không chỉ vì họ không hiểu về nguyên tắc hướng nhà cần thuần khí, mà còn vì họ có thể kiêm không đúng độ số, vì không phải tọa hướng nào cũng có thể kiêm 3 độ, phụ thuộc vào sơn là âm hay dương.

Hơn nữa, hướng kiêm 3 độ cũng là biên giới giữa hướng chính và kiêm hướng. Nếu không kiêm cẩn thận, hướng đó có thể vượt khỏi hướng chính và thuộc về kiên hướng, dẫn đến việc từ tốt biến thành xấu…

Ngoài ra, vì một số sách cổ xưa không còn tồn tại hoặc cố ý không đề cập tới lý do vì sao họ đưa 64 quẻ Tiên thiên vào trong la bàn. Tuy nhiên, dựa trên ý của tác giả, có vẻ như chúng được sử dụng để phụ đoán tính chất của từng hướng nhà, chẳng hạn như trường hợp của Nhị thập bát tú… và không phải để chọn hướng.

Vì vậy, Tưởng đại Hồng vẫn đưa 64 quẻ Tiên thiên vào trong la bàn mà ông chế tạo. Nhưng khi chọn hướng, ông vẫn chỉ lấy đơn hướng (đặt trên đường phân giới của quẻ Dịch). Điều này chứng tỏ rằng đường phân giới của 64 quẻ Tiên thiên thực tế không có giá trị gì về việc lập hướng nhà.

 

Với những ngôi nhà có tuyến Đại-Tiểu không vong, mặc dù có vẻ xấu, nhưng nếu biết cách hóa giải, chúng vẫn có thể biến xấu thành tốt và sử dụng được, không nhất thiết phải bỏ qua vì chúng thuộc nhóm “BẤT KHẢ LẬP” và không thể sử dụng. Chủ đề này sẽ được thảo luận trong dịp khác.

Ngoài ra, đối với trường hợp những ngôi nhà có tọa hướng thuộc cả Thiên nguyên Long và Nhân nguyên Long, hoặc Nhân nguyên Long và Thiên nguyên Long, có thể kiêm được nhiều mà không cần lo lắng về Không vong. Tuy nhiên, vẫn phải kiêm theo đúng độ số, phụ thuộc vào sơn là âm hay dương. Nếu thuộc sơn âm, có thể kiêm đến 7 độ, còn nếu thuộc sơn dương, chỉ có thể kiêm tới 6 độ.

Phương Pháp Chọn Hướng Nhà (Phần 5)

Thành Môn

Trong quá trình chọn hướng cho ngôi nhà hoặc khu mộ, ngoài các yếu tố đã được đề cập, quan trọng là chú ý đến khu vực ở hai bên phía đầu hướng để áp dụng “Thành Môn”.

 

Thành Môn, hay cổng thành, là nơi ra vào thành, cũng như là điểm dẫn nước ra và vào ở phía dưới. Vì vậy, Thành Môn là cửa ngõ của huyệt hoặc nơi thủy luân, thủy động, thủy hội tụ ở hai bên phía trước. Trong việc đánh giá nhà ở, nếu khu vực đó có con đường dẫn vào nhà, ngã ba, ngã tư, ao hồ, biển, hoặc nơi hai dòng sông gặp nhau, những ngôi nhà đó được coi là có Thành Môn.

Thành Môn được phân chia thành ba loại:

Thành Môn Chính: Nằm ở những khu vực khi kết hợp với khu vực đầu hướng tạo thành các số Tiên Thiên như 1-6, 2-7, 3-8, 4-9.

Ví dụ: Căn nhà hướng NAM, với con đường vào nằm ở hướng ĐÔNG NAM. Vì ĐÔNG NAM thuộc quẻ TỐN với số 4, và NAM thuộc quẻ LY với số 9, tạo thành số Tiên Thiên 4-9, nên con đường vào nhà đó được coi là Thành Môn Chính.

Thành Môn Phụ: Nằm ở các vị trí bên cạnh đầu hướng, nhưng không tạo thành số Tiên Thiên.

Ví dụ: Nhà hướng NAM, nhưng con đường vào ở hướng TÂY NAM. Vì NAM là số 9, TÂY NAM là số 2, không tạo thành số Tiên Thiên, nên đây là Thành Môn Phụ.

 

Thành Môn Ngầm: Ngoài Thành Môn Chính và Thành Môn Phụ, còn có Thành Môn Ngầm, được chia thành hai loại:

  1. a) Khi vận tinh Ngũ Hoàng tới một trong hai bên cạnh đầu hướng và có thủy hoặc cổng, ngõ vào, được coi là Thành Môn.

Ví dụ: Nhà hướng TÝ, hướng NGỌ, nhập trạch trong vận 8. Khi an vận bàn, vận tinh Ngũ Hoàng sẽ đến hướng TÂY NAM. Nếu nơi này có ngã tư, con đường vào nhà, ao hồ, thì được xem là Thành Môn Ngầm.

  1. b) Khi các vận, sơn hay hướng tinh tới hai bên cạnh đầu hướng và kết hợp thành số Tiên Thiên với địa bàn tại đó. Nếu khu vực có cổng, ngã ba, ao hồ, núi cao, thì cũng được xem là Thành Môn.

Ví dụ: Nhà hướng CANH, hướng GIÁP (ĐÔNG), nhập trạch trong vận 8. Khi an vận bàn, vận tinh số 6 tới hướng. Nếu muốn an Hướng bàn, lấy số 6 nhập trung cung xoay nghịch, số 3 đến ĐÔNG BẮC. Nếu nơi này có cổng, con đường vào nhà, thì được xem là Thành Môn.

Trong Huyền Không Học, xác định Thành Môn là yếu tố quan trọng khi chọn hướng cho nhà hoặc mộ. Nếu Thành Môn tốt, ngôi nhà có thể bình yên, thậm chí hóa giải hung khí, mang lại phú quý. Sách còn nói: “Bí quyết Thành Môn là cực tốt, cất nhà, lập mộ thì đại cát.”

Tuy nhiên, việc sử dụng Thành Môn không chỉ là việc nhìn thấy có cổng, ngõ vào hai bên đầu hướng là được, mà còn phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản như:

Tọa hướng nhà phải đồng Nguyên Long với khu vực có cổng, cửa hoặc sông nước ở hai bên đầu hướng.

Ví dụ: Nhà hướng TÝ, nhập trạch trong vận 8. Vì hướng NGỌ (NAM) nên Thành Môn chỉ có thể lấy ở phía ĐÔNG NAM và TÂY NAM. Nếu có cổng, ngõ vào ở phía ĐÔNG NAM hoặc sông nước ở phía TÂY NAM, thì nhà đó có Thành Môn.

Khu vực của Thành Môn phải đắc vượng khí của Phi Tinh.

Ví dụ: Nhà hướng TÝ, nhập trạch trong vận 8. Nếu vận tinh số 5 đến TÂY NAM và số 7 đến ĐÔNG NAM, và Thành Môn chọn là sơn KHÔN và TỐN tương ứng, thì nơi đó có vượng khí.

Về hiệu suất của các loại Thành Môn, Thẩm trúc Nhưng cho rằng Thành Môn Chính có hiệu suất cao hơn Thành Môn Phụ, nhưng không nói gì về hiệu suất của Thành Môn Ngầm. Tuy nhiên, Thành Môn Ngầm có vẻ yếu hơn Thành Môn Phụ. Thành Môn Ngầm không bị giới hạn trong một sơn nhưng có thể bao quát cả một hướng.

Ví dụ: Nhà hướng TÝ, trong vận 8, khu vực TÂY NAM có vận tinh số 5 đắc Thành Môn Ngầm. Thành Môn này có thể chiếm hết ba sơn MÙI-KHÔN-THÂN của hướng TÂY NAM, không bị giới hạn chỉ trong một sơn như Thành Môn Chính hay Phụ, nhưng hiệu suất của nó cũng thấp hơn hai loại Thành Môn kia.

 

Về thời gian ảnh hưởng của Thành Môn đối với một ngôi nhà hay khu địa huyệt, tùy thuộc vào từng loại Thành Môn mà có thể kéo dài hoặc chỉ là ngắn ngủi trong một vận. Chi tiết này sẽ được bàn thêm ở một cơ hội khác.

Huyền Không Phi Tinh Là Gì-4

Phối hợp Phi Tinh với Địa Hình (loan đầu)

Ngoài những điểm đã được nêu trước đó, việc đồng bộ hóa với địa hình bên ngoài cũng là một yếu tố quan trọng khi chọn lựa Phi Tinh.

Khi nói về việc địa hình phải hòa quyện với Phi Tinh, điều này ám chỉ rằng các vị trí có thủy (như sông, hồ, ao biển), hoặc đường đi, sân rộng, đồng trống… cần phải trùng với những nơi có sinh khí hoặc vượng khí của Hướng Tinh. Ngược lại, những khu vực có núi đồi, đỉnh cao, hoặc nhà cửa, cây cỏ… cần phải trùng với những khu vực có sinh khí hoặc vượng khí của Sơn Tinh.

Tuy nhiên, vì những thông tin này đã được trình bày chi tiết trong các bài trước như “VƯỢNG SƠN, VƯỢNG HƯỚNG”, “THƯỢNG SƠN, HẠ THỦY”, “THU SƠN, XUẤT SÁT”… nên độc giả có thể tham khảo sâu hơn trong những bài viết đó để có cái nhìn toàn diện về sự kết hợp giữa địa hình và Phi Tinh.

Kết Luận về Huyền Không Phi Tinh

Qua việc nghiên cứu về các yếu tố thuần khí, hướng, Đại-Tiểu không vong, chúng ta có thể rút ra kết luận rằng các tuyến đường chính của mỗi sơn (tức là tuyến vị đơn hướng) là những lựa chọn tốt nhất khi chọn địa điểm xây dựng nhà. Nếu những địa điểm này còn kết hợp tốt với Thành Môn và có sự phối hợp giữa Phi Tinh và địa hình bên ngoài, thì ngôi nhà đó sẽ đem lại phú quý và gia chủ sẽ có cuộc sống trong sạch, thanh khiết, không bị xấu xa hoặc không may mắn.

Nếu áp dụng vào quy mô lớn hơn, như các thành phố, kinh đô của mỗi quốc gia, cũng cần phải lên kế hoạch cho đường xá sao cho không có quá nhiều nhà kiêm hướng, hay phạm vào những nguyên tắc không tốt như không vong, sai thố… Điều này có thể giúp tránh được nhiều tai họa và tội ác.

 

Dù cho thành phố, kinh đô vẫn phải đối mặt với ảnh hưởng của vận khí long mạch tại đó, và có những giai đoạn thịnh suy, tuy nhiên, nhìn chung cuộc sống của cư dân trong những thành phố, quốc gia đó sẽ ổn định và thịnh vượng hơn so với những nơi khác.

 

Ví dụ, trung tâm thủ đô Washington Hoa Kỳ chỉ xây dựng đường theo 4 trục chính là BẮC-NAM, ĐÔNG-TÂY, nên hầu hết các nhà cửa chỉ hướng TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU. Tương tự, trung tâm thành phố New York cũng chỉ có đường theo 4 trục chính là 30 độ – 210 độ hoặc 300 độ – 120 độ, nên đa số nhà cửa chỉ hướng THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.

Trích dẫn:

Để hỗ trợ những người mới tìm hiểu về “Phong thủy Huyền Không”, tôi giới thiệu những điều nên và không nên trong năm Kỷ Sửu này. Mỗi tháng sẽ có bài viết về sự kết hợp giữa niên nguyệt phi tinh cho nhà cửa và cơ sở kinh doanh để “tránh hung, đón kiết”.

HUNG THẦN

Ngũ Hoàng Đại Sát: Năm 2009, Ngũ Hoàng Đại Sát đóng ở phương Bắc (so với trung tâm nhà), vì vậy năm nay cần tránh động thổ ở phương này. Đặc biệt, nhập trạch (chuyển đến nhà mới) có thể mang lại xấu khi nhà hướng Bắc hoặc Nam. Nếu phải nhập trạch, nhà hướng Bắc cần treo một chuông gió để giảm tác động của Ngũ Hoàng. Nếu phòng ngủ hoặc bếp ở hướng Bắc, cần đặt một hũ muối ở đó để hóa giải tác động của Ngũ Hoàng.

Thái Tuế – Năm nay, Thái Tuế là chúa tể của dương khí đến cung Sửu, nên cũng cần tránh động thổ ở cung này. Sửa chữa hoặc đập phá ở cung Sửu có thể mang lại tai họa. Nhà có cổng, cửa ra vào ở cung này, hoặc ở đây có ngã ba; cũng là một điều đáng ngại nếu ở đây không có hướng tinh là sinh, vượng khí (8 – 9 – 1). Phòng ngủ ở cung Sửu so với trung tâm nhà cần để trống trong năm nay. Bếp nếu có sơn tinh là sinh vượng khí thì tốt, còn không thì không tốt.

Tam Sát – Năm nay, Tam Sát là chúa tể của âm khí đến hướng Đông. Cũng cần tránh động thổ ở cung này trong năm nay. Nếu đập phá, sửa chữa tại cung này, có thể mang lại tai họa. Đặc biệt, nhà hướng Tây có phòng ngủ ở cung Đông so với trung tâm nhà, nên tránh sử dụng phòng này, vì âm khí ở đây quá nặng. Nếu có cửa ra vào ở cung Bắc nữa, năm nay không tránh khỏi tai họa cho người ngủ trong phòng này.

Nhị Hắc: Năm 2009, Nhị Hắc đóng tại phương Tây, vì vậy nhà hoặc cơ sở có cửa ra vào ở phương này cần treo một chuông gió để giảm tác động.

Các tháng có nguyệt tinh Ngũ Hoàng hoặc Nhị Hắc đến cửa cũng cần treo một chuông gió tại đó.

Tuế Phá – Lực Sỹ – Đại Tướng Quân: Các phương Tây Nam và Tây cũng cần duy trì yên bình trong năm nay (Lực Sỹ chung với Thái Tuế ở Đông Bắc).

CÁT THẦN

Bát Bạch: Năm nay, Bát Bạch đến hướng Đông Nam. Với những nhà hoặc cơ sở có hướng nhà và cửa chính ở cung Tốn, Tị. Đồng thời có hướng tinh là sinh, vượng khí, năm nay sẽ là một năm tốt (đã vượng sẽ càng thêm vượng). Đối với nhà hoặc cơ sở có hướng nhà và cửa ở cung này mà hướng tinh là suy tử, năm nay có thể khó khăn.

Thiên Lộc – Thiên Mã: Năm Kỷ Sửu, Thiên Lộc tại Ngọ, Thiên Mã tại Hợi. Nên những phương Nam và Tây Bắc nếu sửa chữa hoặc động thổ, sẽ rất tốt. Chi tiết sẽ được trình bày theo từng tháng khi kết hợp với nguyệt tinh.

 

Huyền Không Phi Tinh Là Gì -5

Huyền Không Phi Tinh Vận 9 (từ 2024 đến 2043): Dù chọn mảnh đất có phong thủy tốt, nhưng kết quả lớn sẽ phụ thuộc vào thời vận và Sinh Thần Bát Tự. Nếu vận khí không tốt, cuộc sống sẽ thiếu lương thiện. Tuy nhiên, vẫn có những phương pháp khác để chuyển hung thành cát, điều này sẽ được chia sẻ trong bài viết kế tiếp của Cô Ngân Tatu Phong Thủy, mọi người đón chờ xem nhé.

Giỏ hàng

Chưa có sản phẩm trong giỏ hàng.